Ngày 17-05-2008
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
08:14 17/05/2008
LỄ THIÊN CHÚA BA NGÔI

LỜI CHÚA: Gioan 3, 16-18

Bài trích Phúc Âm theo thánh Gioan. Khi ấy, Đức Chúa GIÊSU nói với ông Nicôđêmô rằng: ”THIÊN CHÚA đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con-Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì THIÊN CHÚA không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một THIÊN CHÚA”.

SUY NIỆM

Khi suy niệm về THIÊN CHÚA BA NGÔI, tâm lòng các tín hữu Công Giáo dâng lên niềm tri ân và cảm tạ chân thành. Tri ân Tình Yêu bao la của THIÊN CHÚA đã dựng nên muôn vật muôn loài. Chưa hết, khi con người sa ngã phạm tội, THIÊN CHÚA CHA đã sai Con Một Ngài là THIÊN CHÚA CON nhập thể làm người, để cứu chuộc nhân loại, nhưng nhất là, để mặc khải cho loài người biết Tình Yêu không bến không bờ của THIÊN CHÚA BA NGÔI: Cha, Con và Thánh Thần.

Chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã tỏ lộ rõ ràng khuôn mặt nhân hậu của THIÊN CHÚA CHA và Tình Yêu của Đức Chúa Thánh Thần. Cuộc mặc khải hoàn tất với công trình cứu độ của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Ngài giao hòa loài người với THIÊN CHÚA CHA và gởi Đức Chúa Thánh Thần xuống để tiếp tục công cuộc thánh hóa. Tất cả những điểm này cho thấy mối hiệp nhất hòa điệu giữa THIÊN CHÚA BA NGÔI: Cha, Con và Thánh Thần.

Để có thể hiểu được mầu nhiệm THIÊN CHÚA BA NGÔI không cần phải có một trí thức siêu phàm, nhưng là một tâm lòng khiêm hạ và thơ trẻ. Một tâm lòng yêu thương chân thành. Tình Yêu giúp hiểu được tất cả. Không thể hiểu THIÊN CHÚA BA NGÔI nếu không hiểu Tình Yêu là gì. Hay nói cho đúng hơn, không thể hiểu THIÊN CHÚA BA NGÔI nếu không biết yêu thương là gì. Trong những tâm lòng kiêu căng và hận thù, không có chỗ đứng cho THIÊN CHÚA. Không có THIÊN CHÚA thì cũng không có Tình Yêu. Tâm lòng nào không có THIÊN CHÚA, thì không thuộc về Trời Cao, nhưng thuộc về âm phủ và là con cái của thần dữ, thần tối tăm.

Đức Tin là một hồng ân. Một hồng ân cao cả. Một hồng ân nhưng không. Phúc thay cho người nào biết tiếp nhận hồng ân và trở thành con cái đích thực của THIÊN CHÚA BA NGÔI. Phúc Âm theo thánh Luca nơi chương 10, câu 21-22 viết:

- Được Thánh Thần tác động, Đức Chúa GIÊSU hớn hở vui mừng và nói: ”Lạy CHA là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen CHA, vì CHA đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy CHA, vì đó là điều đẹp ý CHA”.

.. CHA Thầy đã giao phó mọi sự cho Thầy. Và không ai biết Người Con là Ai, trừ Đức Chúa CHA, cũng như không ai biết Đức Chúa CHA là Ai, trừ Người Con, và kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho.

Hãy đi vào trong Tình Yêu THIÊN CHÚA và thực thi đức bác ái, để được diễm phúc lãnh nhận hồng ân tin vào THIÊN CHÚA BA NGÔI: Cha, Con và Thánh Thần. Ngôn ngữ THIÊN CHÚA là ngôn ngữ Tình Yêu. Ai ở trong tình yêu thì hiểu được ngôn ngữ THIÊN CHÚA. Toàn thể bốn Phúc Âm theo thánh Matthêô, Máccô, Luca và Gioan cũng chỉ diễn tả duy nhất công trình cứu độ của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Đó là công trình Tình Yêu.

”THIÊN CHÚA yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì THIÊN CHÚA không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.

Đáp lại Tình Yêu bao la cao cả của THIÊN CHÚA BA NGÔI, tín hữu Công Giáo phải tôn thờ cùng yêu mến Ngài với trọn trái tim, trí tuệ và tâm hồn. Lòng kính mến của con người chính là vinh quang cho THIÊN CHÚA. Đó là lời chúc tụng rất đẹp ý THIÊN CHÚA BA NGÔI.

Sau cùng, để luôn nhắc nhở mình về mầu nhiệm yêu thương vô bờ bến của THIÊN CHÚA BA NGÔI, tín hữu Công Giáo hãy thường xuyên kính cẩn làm dấu Thánh Giá đơn:

- Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

Hoặc làm dấu Thánh Giá kép:

- Lạy Chúa chúng con, vì dấu + Thánh Giá, xin chữa + chúng con cho khỏi + kẻ thù. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

Ngoài ra, hãy ý thức và trọn lòng tin-cậy-mến mỗi khi đọc kinh Sáng Danh:

- Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.

Sáng danh THIÊN CHÚA BA NGÔI, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Amen.
 
Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống
Tuyết Mai
10:51 17/05/2008
Cảm nghiệm Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi

Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. ... Tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa ở cùng với chúng con từ lúc trời vừa tảng sáng hay lúc chúng con vừa mở choàng con mắt thức dậy. Khi dơ tay lên làm Dấu Thánh Giá đó là lúc mà chúng con nhận thức được là Thiên Chúa đã ban cho chúng con suốt một đêm ngủ thật bình an cả hồn lẫn xác.

Tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa vẫn ở với chúng con khi chúng con đến nơi công sở của chúng con để làm việc. Nơi ấy có thể là một học đường, một công ty điện tử, một công ty sản xuất hàng hóa, một trung tâm người già, một nhà thương, một nhà tù, một tiệm beauty salon, hay làm việc ngay tại nhà của chúng con. Chúa luôn luôn hiện diện bên chúng con một cách huyền nhiệm, bí ẩn, và không nhìn thấy được Ngài nếu chúng con dùng đôi mắt thịt của chúng con. Nhưng trái tim và con mắt đức tin của chúng con cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa ở gần sát bên qua anh chị em của chúng con.

Khi nào thì chúng con cảm nhận được thật sự là có Thiên Chúa hiện hữu, bên cạnh, trong chúng con, và luôn đồng hành? Lậy Chúa có phải bắt đầu từ cái ngày khai thiên lập địa Chúa tạo thành mặt trời, vũ trụ, và tất cả những gì chứa đựng trong một vũ trụ thật bao la và rộng lớn. Rồi thì Chúa tạo nên trái đất và tất cả những gì chứa đựng sinh sống trong trái đất. Sau cùng thì Chúa tạo dựng nên con người để thống trị và làm chủ tất cả? Nên có phải từ căn bản là chúng con đã công nhận có bàn tay của Chúa tạo thành trời đất và khẳng định rõ ràng mạch lạc trong Kinh Tin Kính. "Con tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.

Con tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng con, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai sinh bởi bà Maria đồng trinh. Chịu nạn đời quan phongxiô philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác. Xuống ngục tổ tông ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại. Lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng. Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. Con tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Con tin có hội thánh hằng có ở khắp thế này, các thánh thông công. Con tin phép tha tội. Con tin xác loài người ngày sau sống lại. Con tin hằng sống vậy. Amen”.

Lậy Chúa! Qua bài Kinh Tin Kính chúng con không thể nào phủ nhận rằng Thiên Chúa không yêu con người tội lỗi của chúng con. Dù tội lỗi của chúng con có chất chồng đến đâu Chúa cũng tạo cho chúng con có cơ hội để trở về như chuyện "người con hoang đàng" trong một dụ ngôn của Chúa.

Chúa ơi ngày làm việc của con hôm nay con thấy buồn quá! Buồn vì anh chị em của con không cảm nhận được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa luôn đổ tuôn trên chúng con. Anh chị em của con cứ mải ghen tỵ và so đo từng những chuyện thật nhỏ nhặt mà có thể bỏ qua vì không đáng để tâm tới hay buồn bực mà làm gì!? Sao không sống với nhau vì lòng bác ái? Sao không sống với nhau trong tình anh chị em. Chín bỏ làm mười, bởi biết con người luôn có khiếm khuyết và bất toàn. Chúa ơi con chẳng hiểu vì sao anh chị em con không tìm những niềm vui để cùng nhau vui vẻ, chia sẻ, và tìm sự cảm thông thay vì bỏ thời giờ đi nói hành nói xấu nhau. Có ít thì xé ra to. Không thì nói có, có thì nói rằng không. Câu chuyện thì hồi đầu nó chỉ là chuyện thật nhỏ như con chấy con rận, nhưng qua đến một người trung gian méc lại thì câu chuyện nó trở thành không thể nào tha thứ được, và chuyện có thể trở nên thật trầm trọng, có thể ảnh hưởng và làm hại đến cả gia đình và tương lai của người ta, chỉ vì cái lòng ghen ghét và ganh tỵ của anh chị em chúng con. Trong khi chúng con có thể nhắc nhở cho nhau để tình cảm được triển nở tốt đẹp và nơi chốn làm việc sẽ trở nên không khí của một đại gia đình?

Gần đây con được nghe biết thiên tai đang xẩy ra cho nhiều nơi. Bão tố bên Miến Điện đã giết chết bao nhiêu con người không kể đến nhà cửa và của cải tiêu tan trôi theo cơn lụt lội. Động đất bên Trung Hoa cũng chôn vùi không biết hằng bao nhiêu nhân mạng, trên 100 ngàn người và còn đang tiếp tục tìm kiếm xác. Cháy rừng, chiến tranh, khủng bố, và tai nạn xảy ra hằng ngày cứ tiếp tục diễn ra trước mắt chúng con. Trên màn ảnh tivi, trên internet, trên radio, trên báo chí, thế mà anh chị em của chúng con vẫn còn chưa biết suy nghĩ và cảm tạ Hồng Ân Thiên Chúa cho chúng con hằng ngày bình an và lương thực hằng ngày dùng đủ. Chẳng lẽ anh chị em của con cứ nghĩ rằng chưa đến lượt của mình, hay chẳng phải là chuyện của mình, nên cứ nhắm mắt mà làm ngơ, không một mảy may nghĩ rằng Chúa có thể mang mình đi ngay ngày hôm nay hoặc có thể liền ngay bây giờ? Không một mảy may muốn được thay đổi cách sống hay xin ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần để thánh hoá con người nên tốt đẹp để xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi! Dẫu sao chúng con cũng là những người con bất xứng trước Thiên Nhan Chúa bởi chúng con luôn phạm tội. Từ thuở đời đời Chúa đã luôn yêu thương chúng con và Chúa cũng rất kiên nhẫn, độ lượng, và chờ đợi. Xin Thiên Chúa tiếp tục yêu thương chúng con và ban bình an của Ngài trên khắp cùng thế giới. Nguyện xin cho linh hồn của tất cả anh chị em con trong những tai nạn xẩy ra gần đây, được Chúa thương và tha thứ tội để họ có cơ hội trở về hưởng Nhan Thánh Chúa trên nước Thiên Đàng, một nơi sẽ muôn đời là Hạnh Phúc vĩnh cửu trường tồn thiên thu vạn đại, Amen.
 
Nhiệm mầu tình Chúa!
Sa Mạc Hồng
10:53 17/05/2008
Nhiệm mầu tình Chúa!

Tình Chúa thật nhiệm mầu!
Ngút ngàn cao thẳm sâu
Từ hư không con trở thành loài thụ tạo
Trong bàn tay trìu mến của Ngài
Con đã ra đời
Dưới một bầu trời sắp sẵn
Tình Chúa thật bao la
Ngài là nguồn sống, Ngài là Cha
Là Đấng sinh thành nên vũ trụ!

Tình Chúa thật nhiệm mầu
Con lớn lên giữa giòng đời bể dâu
Và Ngôi Lời đã đến
Đem nguồn sống tâm linh
Dẫn lối tới Thiên đình
Trong chính thân Ngài làm của lễ
Nuôi dưỡng lòng con cả Linh hồn
Rồi Chúa Thánh Thần đến thánh hoá con
Tâm lòng con đầy dũng lực
Biểu dương sức mạnh Chúa Thánh Thần
Trong thế giới đầy bóng tối
Đầy cạm bẫy quỉ ma!

Lạy Chúa, từ lúc được sinh ra
Con sống trong tình Chúa
Xác hồn tràn ngập nguồn thương yêu
Tình Chúa thật nhiệm mầu
Tình Chúa quá thẳm sâu
Con sẽ luôn ca ngợi
Rao truyền lời Chúa giữa ngàn dân
Để vinh danh Chúa Cha, Chúa Con
Và Chúa Thánh Thần!
Là Thiên Chúa
Của ngàn tinh tú, ngàn vũ trụ
Của ngàn dân và các Thiên Thần!
 
Áo Đức Bà Carmêlô
Lê Nghĩa
10:59 17/05/2008
ÁO ĐỨC BÀ CARMELÔ

Vào ngày 16 tháng 07 năm 1251, tại Tây Ban Nha, Thánh Simon Stock là vị Thánh đã sáng lập ra Dòng Carmelô, để đáp lại sự sốt sắng cầu nguyện của Thánh nhân, Đức Mẹ Maria đã hiện ra cầm trong tay Bộ Áo Đức Bà Carmelô và phán rằng: “Bất cứ ai mặc Bộ Áo Đức Bà Carmelô này khi chết sẽ không bị sa hỏa ngục. Bộ Áo Đức Bà Carmelô của Mẹ sẽ là một dấu chỉ phần rỗi linh hồn, một sự bảo vệ trong lúc nguy hiểm và một lời hứa bình an”.

Đức mẹ cũng nói thêm rằng: “hãy mặc Áo Đức Bà Carmelô một cách sùng kính và kiên trì. Đó là Áo của Mẹ. Mặc Áo Mẹ có nghĩa là các con liên tiếp nghĩ đến Mẹ, ngược lại Mẹ sẽ luôn luôn nghĩ về các con và giúp đỡ các con chiếm được sự sống đời đời.”

Lời hứa vĩ đại này đồng thời lại được xác nhận khi Đức Mẹ Nữ Vương Thiên Đàng đã hiện ra với Đức Cha Jean Dreze (sau này là Đức Giáo Hoàng XXII) và nói với Ngài rằng: “Những ai mặc áo Đức Bà Carmelô sẽ được đưa ra khỏi Luyện ngục vào ngày Thứ Bảy Đầu Tháng sau khi chết.” Và rồi sau này chính Đức Giáo Hoàng Benedict XV cũng đã ban bố 500 ngày ân xá cho người nào mặc mỗi lần hôn kính Áo Đức Bà Carmelô.”

Và 666 năm sau tại Fatima, vào ngày 13 tháng 10 năm 1917, khi Đức Mẹ Maria hiện ra với 3 trẻ chăn cừu Lucia, Phanxicô và Giaxinta. Ngoài việc Đức Mẹ nhắn nhủ 3 trẻ “siêng năng lần chuỗi Kinh Mân Côi, cải thiện đời sống và tôn sùng Trái-Tim Vô-Nhiễm Nguyên-tội Mẹ...”. Đức Mẹ Maria lại còn cầm trong tay Bộ Áo Đức Bà Carmelô mà sau này Lucia có nói lại rằng: “Mẹ muốn tất cả mọi người mặc Áo Đức Bà Carmelô của Mẹ và Mẹ muốn lòng sùng kính Áo Đức Bà Carmelô của Mẹ được truyền bá.”

Để chúng ta được hưởng đặt ân Đức Mẹ hứa ban sẽ giải thoát linh hồn chúng ta ra khỏi Luyện ngục vào ngày Thứ Bảy Đầu Tháng – ngày được dâng hiến cho Đức Mẹ, thì chúng ta:

1. Phải mặc Áo Đức Bà Carmelô. - 2. Tuân giữ trong sạch theo điều kiện đời sống của mình, và - 3. Lần chuỗi Kinh Mân Côi mỗi ngày.

NGHI THỨC LÀM PHÉP VÀ MẶC ÁO ĐỨC BÀ CARMELÔ

Để hưởng nhiều ơn ích nhất về sự sùng kính Áo Đức Bà Carmelô, người mặc Áo Đức Bà Carmelô phải được mặc vào bởi một vị Linh mục hay Giám mục thuộc dòng Carmelô, Dominicô hay Phanxicô. Bằng không thì bất cứ Linh mục hay Giám mục Công giáo nào khác cũng được. Sau khi gia nhập mặc Áo Đức Bà Carmelô đúng theo nghi thức thì mỗi lần người mặc Áo Đức Bà Carmelô muốn thay đổi Bộ Áo Đức Bà Carmelô mới thì không cần phải làm phép Bộ Áo Đức Bà Carmelô nữa. Và khi gia nhập mặc Áo Đức Bà Carmelô thì phải mặc Áo Đức Bà Carmelô cho đến khi chết (có như thế thì lời hứa của Đức Mẹ mới thực hiện được) “Ai mặc Áo Đức Bà Carmelô thì sẽ không bị sa hỏa ngục (Đức Mẹ hứa với Thánh Simon Stock vào năm 1251)”.

Sau đây là cách mà Linh mục hay Giám mục cử hành nghi thức cho người muốn gia nhập mặc Áo Đức Bà Carmelô.

- Cha chủ sự: Ôi lạy Chúa hãy tỏ cho chúng con biết lòng thương xót của Chúa.

- Giáo dân (hay người mặc áo), thưa: Và xin ban cho con (chúng con) sự cứu rỗi của Chúa.

- Cha chủ sự: Lạy Chúa, xin nhận lời con (chúng con) cầu xin.

- Giáo dân (hay người mặc áo), thưa: Và hãy để tiếng kêu cầu của con (chúng con) bay lên tới Chúa.

- Cha chủ sự: Chúa ở cùng anh chị em.

- Giáo dân (hay người mặc áo), thưa: Và ở cùng Cha.

- Cha chủ sự: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại, bởi quyền năng của Chúa, xin hãy thánh hóa Bộ (hay những Bộ) Áo Đức Bà Carmelô này, vì tình yêu Chúa và vì tình yêu Đức Mẹ Carmelô, những tôi tớ chúa sẽ mặc một cách sùng kính và nhờ lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, nguyện xin Chúa bảo vệ người mặc khỏi mọi chước ma quỷ cho tới khi chết trong ân sủng của Chúa. Nhờ Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống Hằng Trị đời đời chẳng cùng. Amen.

- Rồi Cha Chủ sự làm phép người sẽ mặc Áo Đức Bà Carmelô và dùng hai tay cầm bộ Áo Đức Bà Carmelô mặc vào cho người gia nhập trong khi đọc:

Hãy lãnh nhận bộ Áo Đức Bà Carmelô đã được làm phép và hãy cầu xin Đức Trinh Nữ Rất Thánh, nhờ bởi công nghiệp của Người, Áo Đức Bà Carmelô có thể mặc mà không vướng mắc tội lỗi và che chở con từ mọi sự dữ và đem con về hưởng phúc đời đời. Amen.

Sau khi mặc Áo Đức Bà Carmelô cho người gia nhập.

- Cha chủ sự tiếp tục lời nguyện:

- Cha, bởi quyền năng đã ban cho cha, thừa nhận con gia nhập và con được hưởng những ơn ích thiêng liêng nhờ lòng thương xót của Chúa Giêsu bởi Dòng Carmelô.

Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen. Nguyện xin Thiên Chúa Toàn Năng Đấng tạo thành trời đất ban phúc lành cho con. Đấng đã đoái thương gia nhập con vào Hội Đức Trinh Nữ Hồng Phúc của Núi Carmelô. Chúng con cầu xin Đức Mẹ Rất Thánh đạp nát đầu con rắn xưa để con có thể được vào hưởng phúc đời đời nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.

- Giáo dân (hay người mặc áo), thưa: Amen.
 
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần
LM Nguyễn Vinh Gioang
13:35 17/05/2008
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần (32)

311. Tâm niệm Sứ Điệp La Vang

Tin, Cậy, Mến theo lời Mẹ khuyên!
Tin mãnh liệt, không hề lay chuyển!
Cậy vững vàng, không sợ nguy biến!
Mến Chúa hết tình và yêu người liên!

312. Chúng ta hãy nghe theo dư luận nào?

Dư luận tiêu cực: có thì nói không, không thì nói có, thêm vào, bớt ra, đổi trắng thành đen, một chiều, … Đây là sự sắp đặt mưu mô, sự gian xảo, sự giựt dây, có dụng tâm làm cho người ta ra mù quáng, xa sự thật. Chúng ta đừng nghe theo dư luận tiêu cực bất công nầy.

Dư luận tích cực: phản ảnh sự đồng tâm nhất trí của mọi hạng người thiện chí, đưa ra những phê phán chính đáng và xây dựng. Đây là lương tri của toàn dân, là tinh hoa quý báu được đúc kết bằng những kinh nghiệm phong phú và những suy tư chín muồi. Chúng ta hãy nghe theo dư luận tích cực chính đáng nầy.

313. Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa, xin cho con hiền lành.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn sống hiền lành. Xin cho con đừng bao giờ giận dữ, đừng bao giờ tức tối, đừng bao giờ chửi bới ai, la mắng ai, chỉ trích ai, lên án ai, đánh đập ai. Xin cho con biết sống nhịn nhục với mọi người. Lạy Chúa Giêsu, Chúa làm gương cho con sống hiền lành, xin cho con sống hiền lành như Chúa.

314. Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa, xin cho con hy sinh.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn sống hy sinh. Chúa cho con có mặt trên đời nầy không phải để sống một cách ích kỷ, nhưng để sống cuộc đời hy sinh. Càng hy sinh, con càng được hạnh phúc sung sướng. Càng hy sinh, con càng đem lại nhiều ích lợi cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội và cho Giáo Hội của Chúa. Lạy Chúa Giêsu, Chúa làm gương cho con sống hy sinh, xin cho con sống hy sinh như Chúa.

315. Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa, xin cho con khiêm nhượng.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn sống khiêm nhượng. Xin cho con đừng bao giờ kiêu căng, tự ái, khinh dể kẻ khác. Xin cho con biết mình là kẻ tội lỗi, không đáng gì. Xin cho con biết mọi sự trên đời nầy không đáng giá gì nếu chúng không đưa con đến với Chúa. Lạy Chúa Giêsu, Chúa làm gương cho con sống khiêm nhượng, xin cho con sống khiêm nhượng như Chúa.

316. Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa, xin cho con siêng năng đạo đức.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn sống siêng năng đạo đức. Xin cho con đừng bao giờ ở nhưng không là cội rễ mọi tội lỗi, đừng bao giờ sống biếng nhác. Xin cho con siêng năng làm việc bằng trí óc cũng như siêng năng làm việc bằng tay chân. Xin cho con siêng năng làm nhiều việc lành phước đức. Xin cho con đừng ỷ lại vào ai, nhưng trông cậy vào Chúa và tự mình nuôi sống bản thân và gia đình. Lạy Chúa Giêsu, Chúa làm gương cho con sống siêng năng đạo đức, xin cho con sống siêng năng đạo đức như Chúa.

317. Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa, xin cho con thành thật.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn sống thành thành thật. Chúa dạy con sống ngay thẳng, xin cho con đừng bao giờ sống gian dối, sống giả hình. Xin cho con đừng bao giờ phỉnh gạt ai, lừa dối ai, lấy của ai. Xin cho lương tâm con luôn trong sáng, lời nói con luôn thành thật, thái độ con luôn thẳng thắn. Lạy Chúa Giêsu, Chúa làm gương cho con sống thành thật, xin cho con sống thành thật như Chúa.

318. Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa, xin cho con trong sạch.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn sống trong sạch. Xin cho con đừng bao giờ nghe theo những cơn cám dỗ xấu xa. Xin cho con đừng bao giờ nói những lời tục tĩu nhớp nhúa, đừng bao giờ có những thái độ cử chỉ dâm ô. Xin Chúa ở trong lòng con để lòng con được trong trắng thanh cao. Lạy Chúa Giêsu, Chúa làm gương cho con sống trong sạch, xin cho con sống trong sạch như Chúa.

319. Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa, xin cho con vâng lời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn sống vâng lời. Xin cho con vâng lời một cách nhanh chóng, vui vẻ, thật tình và hoàn toàn. Xin cho con vâng lời cha mẹ, anh chị và những người lớn khi họ dạy bảo con những điều tốt đẹp hoặc hữu ích cho con. Lạy Chúa Giêsu, Chúa làm gương cho con sống vâng lời, xin cho con sống vâng lời như Chúa.

320. Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa, xin cho con vui tươi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn sống vui tươi. Xin cho con biết xa lánh tội lỗi vì tội lỗi làm phiền lòng Chúa nên cũng làm cho con không được vui tươi. Xin cho con luôn sống hiền lành, hy sinh, khiêm nhượng, siêng năng đạo đức, thành thật, trong sạch, vâng lời, vui tươi để con luôn được vui tươi trong Chúa. Lạy Chúa Giêsu, Chúa làm gương cho con sống vui tươi, xin cho con sống vui tươi như Chúa.
 
Ơn lành của Đức Mẹ Maria qua ''Ảnh vảy phép lạ''
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
14:00 17/05/2008
ƠN LÀNH ĐỨC MẸ MARIA QUA ”ẢNH VẢY PHÉP LẠ”

Chứng từ do một Nữ Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm, người Ý, kể lại. Các Nữ Thừa Sai truyền giáo bằng việc dạy giáo lý và thăm viếng các gia đình. Chính nhờ các lần thăm viếng này mà Các Chị hun nóng lòng đạo đức của các tín hữu Công Giáo và khuyên nhiều người thờ ơ với đạo giáo, hồi tâm trở lại.

... Vào một buổi sáng giá lạnh tháng Giêng, tôi gõ cửa nhà một gia đình, trong thời kỳ giáo xứ tổ chức Tuần Đại Phúc.

Trong Tuần Đại Phúc, chúng tôi phụ trách các buổi dạy giáo lý nơi gia đình. Bà chủ nhà mở cửa ngay. Trông bà có vẻ đang chờ đợi cuộc viếng thăm của chúng tôi. Bà thổ lộ với chúng tôi nhiều điều, đặc biệt nhất là ưu tư đang đè nặng trên trái tim bà. Bà nuôi dưỡng và giáo dục con cái lớn lên trong Đức Tin Công Giáo. Bà không ngừng lần hạt và vẫn tiếp tục lần hạt Mân Côi, tha thiết kêu xin Đức Mẹ MARIA ban cho các con bà được trở thành người vợ, người chồng gương mẫu và bậc cha mẹ luôn ý thức trách nhiệm của mình. Vậy mà, một đứa con gái của bà - Veronica - chẳng những không muốn chấp nhận giáo huấn của cha mẹ mà còn làm mọi cách để đánh đổ và chống đối những gì có liên quan đến luân lý, nhân bản và đạo giáo Kitô! Đùng một cái, cô con gái bỏ nhà ra đi, biệt tăm biệt tích, trong vòng mấy tháng trời. Bây giờ, thiếu nữ đã về lại gia đình nhưng vẫn mắc chứng lăng-loàn: đêm đêm bỏ nhà ra đi theo trai đến tờ mờ sáng mới trở về nhà.

Tôi lặng lẽ nghe người mẹ trút bỏ gánh nặng. Sau cùng, tôi khuyên bà nên dấu một Ảnh Vảy Phép Lạ Đức Mẹ MARIA trong áo mặc của cô gái. Nhưng bà mẹ kêu lên:

- Không được đâu Dì ơi! Nếu nó khám phá ra, nó sẽ la lối ầm ĩ!

Tôi hỏi lại bà mẹ:

- Vậy ít ra mỗi đêm Veronica cũng ngã lưng trên giường, đặt đầu trên gối ngủ ít là một tiếng đồng hồ chứ?

Bà mẹ gật đầu thưa có. Tôi liền nói:

- Được rồi. Vậy bà hãy đặt ”Ảnh Đức Mẹ ban ơn” vào trong gối ngủ của Veronica. Như thế, mỗi đêm ít ra Veronica đặt đầu trên ”Ảnh Vảy Phép Lạ” trong vòng một giờ. Chúng ta phó thác Veronica cho Đức Mẹ. Chính Đức Mẹ sẽ nghĩ đến chuyện thay đổi không những đầu óc mà cả tâm lòng cô gái nữa. Phần chúng ta, chúng ta phải hợp tác với Đức Mẹ MARIA bằng cách đọc mỗi ngày ”Kinh Hãy Nhớ”.

Thời gian lâu sau đó, tôi trở lại thăm gia đình. Suốt thời gian xa cách, tôi vẫn nhớ cầu nguyện cho Veronica, cũng như xin nhiều người hiệp ý cầu nguyện cho Veronica. Khi gặp lại tôi, bà mẹ của Veronica thật vui mừng. Bà hớn hở kể cho tôi nghe một hơi:

- Dì biết không, ”Ảnh Đức Mẹ ban ơn”, tức ”Ảnh Vảy Phép Lạ”, dấu trong gối ngủ, quả đã làm phép lạ thật! Veronica, con gái tôi, từ từ một thời gian ngắn sau đó đã thay đổi lối sống. Con nhỏ tỏ ra ngoan hiền với mẹ và cư xử dễ thương với hết mọi người trong gia đình. Veronica cũng trở về với Đức Tin Công Giáo và tái khám phá các ân sủng THIÊN CHÚA ban qua các Bí Tích, đặc biệt là hai bí tích Giải Tội và Thánh Thể. Sau đó, nhờ Linh Mục hướng dẫn, Veronica đã chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi lãnh nhận bí tích Hôn Phối. Khi sinh hạ đứa con đầu lòng, hai vợ chồng đã chu đáo xin Rửa Tội ngay cho con. Chồng của Veronica cũng đi theo cùng một con đường với vợ: sống đạo đàng hoàng, mong muốn sinh hạ nhiều con cái và giáo dục con cái nên người.

Kể xong, bà mẹ của Veronica không quên xin tôi thêm nhiều Ảnh Vảy Phép Lạ, để phân phát cho thật nhiều người, đặc biệt những người cần đến ơn lành của THIÊN CHÚA để can đảm sống đạo, giữ đạo đàng hoàng.

... ”Hỡi con, hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ, vì từ đó mà sự sống phát sinh. Miệng lọc lừa, con đẩy cho xa. Môi thâm độc, con xua cho khuất. Đôi mắt con, hãy nhìn ngay phía trước. Ánh mắt con, hướng thẳng trước mặt con. Đường con đi, hãy san cho phẳng. Ước chi mọi nẻo con bước được an toàn. Đừng quanh bên phải, chớ quẹo bên trái, cố giữ chân con khỏi điều xấu xa” (Sách Châm Ngôn 4,23-27).

(P. Luigi Faccenda, ”La Medaglia Miracolosa”, Edizioni dell'Immacolata, 1996, trang 63-64)
 
Mỗi ngày một câu chuyện (dành cho trẻ em)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:45 17/05/2008
CON CHUỒN CHUỒN VÀ CON NHỆN

N2T


Mùa hè đến rồi, mặt trời chiếu ánh nắng chói cả con mắt, những đám mây trắng bay nhè nhẹ trên bầu trời xanh nhạt. Một con chuồn chuồn nhỏ bay đến trong nhụy hoa cùng hoa đùa giỡn, chơi trốn tìm với bươm bướm. Chuồn chuồn mẹ nhìn thấy bèn nói với nó: “Chuồn chuồn nhỏ của mẹ, đi bắt vài con muỗi đến đây !” chuồn chuồn nhỏ không nghe lời mẹ, bởi vì nó là một đứa con ham chơi lười biếng.

Nó tìm một cây sậy và nằm nghỉ trên đó, lúc ấy nó nhìn thấy trên cành cây có một mạng lưới nhện, có con nhện nhỏ đang ngủ trên đó, trong lòng nó nghĩ: hừ, lại một tên tiểu trùng lười biếng ! Nhưng sau đó có một con côn trùng nhỏ bay vào mạng nhện, con nhện bèn cất mình lên ăn nó mất tiêu.

Con chuồn chuồn nhỏ rất ngưỡng mộ, nó bay qua và nói: “Chị nhện, em cũng muốn dệt một cái mạng nhện sau đó có thể nằm lên trên, để không vì chuyện thức ăn mà buồn rầu.”

Nhện cười nói: “Em trai ngu ngốc, em cho rằng chị ngồi không ăn sẵn sao ? Mỗi ngày chị đều làm việc khó nhọc mới có thức ăn để ăn đó.”

Chuồn chuồn nhỏ không tin nên nó ở lại đó để quan sát. Mặt trời từ từ xuống núi, trăng sáng vằng vặt như phủ xuống trên địa cầu một tấm màn bạc. Lúc ấy, con nhện bắt đầu bận việc không ngừng nghỉ, nó thâu một phần lớn tơ nhện lại, chỉ để lại một vài tơ nhện thô, sau đó thì nhả ra những sợi tơ nhện mới, khi trời sắp sáng thì nó mới dệt xong một cái mạng nhện mới.

Khi trời sáng hẳn, con chuồn chuồn nhỏ mặt đầy hoài nghi bay lại hỏi: “Chị nhện, tại sao chị phải làm lại cái mạng nhện mới ?”

Con nhện trả lời: “Bởi vỉ chỉ có sợi tơ mới thì phẩm chất của mạng nhện mới tốt, có thể dính một vài côn trùng nhỏ, nếu không làm việc khổ cực, thì không thể hưởng thụ thành quả ngọt ngào được.”

Con chuồn chuồn nhỏ cuối cùng cũng hiểu được, nó quyết định từ nay sẽ trở thành đứa con chăm chỉ, bởi vì thức ăn không thể tự đưa tới, giống như từ trước đến nay không có món quà nào từ trên trời rơi xuống vậy.

(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)

Gợi ý:

Các em thân mến,

Người thích ăn thức ăn ngon mà lười biếng thì sẽ không có gì ăn, bởi vì Thiên Chúa chẳng bao giờ chúc phúc cho những người làm biếng ngồi chờ sung rụng, nhưng chỉ có chăm chỉ phấn đấu làm việc và học tập, thì cuộc sống của chúng ta mới nở ra rất nhiều thành quả ngon ngọt, hạnh phúc, và Thiên Chúa sẽ chúc lành cho chúng ta.

Con nhện vất vả giăng tơ suốt đêm để bắt mồi, nó không ở không để đợi thức ăn từ trời rơi xuống.

Cũng vậy, hôm nay các em có đủ điều kiện đến trường học, có cơ hội để chuẩn bị cho tương lai sau này, là do cha mẹ các em vất vả khổ cực làm việc. Sự hy sinh to lớn ấy của cha mẹ, chính là con đường dẫn đưa các em đến ước mơ sau này của các em, đó là ước mơ thành linh mục, ước mơ thành các tu sĩ nam nữ, ước mơ thành bác sĩ, ước mơ thành thầy cô giáo, ước mơ thành những con người có ích cho mọi người...

“Ai nghẹ ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng”.

Các em thực hành:

- Không xa hoa lãng phí.

- Không đòi hỏi cha mẹ những thứ không cần thiết.

- Vui vẻ với những gì gia đình mình đang có.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:46 17/05/2008
N2T


26. Thánh sủng chỉ bảo đảm vĩnh viễn, không bảo đảm tạm thời.

(sách Gương Chúa Giê-su)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Ánh Sáng của Đức Maria Trong Đêm Tối của Mẹ Têrêsa
Anthony Lê
08:07 17/05/2008
Ánh Sáng của Đức Maria Trong Đêm Tối của Mẹ Têrêsa

Qua Đó Cho Thấy Cách Mà Đức Mẹ Đã An Ủi “Vị Thánh của Những Người Bị Xã Hội Bỏ Rơi”

TIJUANA, MÊHICÔ (Zenit.org).- Giới báo chí trần tục vừa qua đã cho tung ra rất nhiều bài báo nói về việc Mẹ Têrêsa đã có một “cuộc khủng hoảng” về đức tin trong suốt nhiều thế kỷ đến độ nào, thế nhưng họ đã bỏ qua một sự thật hết sức quan trọng vốn vẫn chưa được tiết lộ ra đó là việc Đức Maria đã giúp Mẹ Têrêsa chống đỡ được những phút giây suy yếu đó như thế nào.

Để tìm hiểu sâu sắc hơn về điều này, hãng tin Zenit đã có cuộc nói chuyện với Cha Joseph Langford, M.C., thuộc Dòng Truyền Giáo Bác Ái (Missionary of Charity) – người đã cùng với Mẹ Têrêsa thành lập ra một Dòng tương tự dành cho nam, tức Dòng gồm các Linh Mục Truyền Giáo Bác Ái, và Cha cũng là tác giả của cuốn “Mẹ Têrêsa: Dưới Bóng Râm của Đức Maria” (Mother Teresa: In the Shadow of Our Lady) vốn đã được Tờ Người Thăm Viếng Chủ Nhật cho xuất bản ra.

Cha Langford đã chia sẽ cho hãng tin Zenit biết về cách mà Mẹ Têrêsa đã bám víu vào Đức Trinh Nữ Maria trong suốt đêm tăm tối của Mẹ, và làm thế nào để chúng ta có thể đến gần gũi hơn với Đức Maria bằng việc theo sát mẫu gương của Mẹ Têrêsa.

Dòng Các Cha Truyền Giáo Bác Ái (M.C. Fathers)


Hỏi (H): Thưa Cha, điều gì khiến cho Cha quyết định rằng đây là thời điểm tốt nhất để kể về phần quan trọng còn lại trong câu chuyện nói về cuộc đời của Mẹ Têrêsa?

Cha Langford (T): Quyết định cho xuất bản ra cuốn sách “Mẹ Têrêsa: Dưới Bóng Râm của Đức Maria” và để tiết lộ ra thêm nhiều chi tiết hơn về cuộc sống nội tâm của Mẹ Têrêsa là vì sự hội tụ của hai sự kiện: sự kiện thứ nhất đó là kỷ niệm 10 năm ngày Mẹ Têrêsa qua đời, và sự kiện thứ hai đó là chuyện tranh cãi vừa qua về “đêm tối” trong tâm hồn của Mẹ Têrêsa.

Đứng trước những sự nhầm lẫn tạo ra chung quanh Mẹ Têrêsa và di sản của Mẹ, dường như điều quan trọng là cần phải tiết lộ ra một chiều kích khác về ánh sáng của sự thật và vẻ đẹp về công trình của Thiên Chúa nơi tâm hồn của Mẹ - một ánh sáng đã chiếu tỏ hơn rất nhiều qua đức tin anh dũng của Mẹ.

(H): Thưa Cha, Cha mô tả như thế nào về những khoảng tăm tối của Mẹ Têrêsa và Cha nghĩ gì về những tranh cãi vừa qua có liên quan đến “đêm tăm tối” đó của Mẹ Têrêsa?

(T): Ngược hẳn với các báo cáo của giới báo chí trần tục, thật ra Mẹ Têrêsa đã không phải chịu đựng bất kỳ một cuộc “khủng hoảng” nào cả có liên quan đến đức tin của Mẹ. Hay nói khác hơn, những vật lộn đó của Mẹ chẳng có liên quan gì đến đức tin cả, mà với “sự mất mát đi về việc cảm nghiệm” của đức tin, với sự mất mát đi về một giác quan xúc giác về Thiên Chúa mà thôi. Giống thể ngay khi Mẹ bước ra khỏi tu viện và bước vào các khu ổ chuột của Calcutta vậy, thì cảm giác bất ổn về sự khuyên lơn của Thiên Chúa đột ngột chấm dứt hẳn đi.

Dẫu rằng Mẹ Têrêsa vẫn chưa hiểu được điều đó mãi cho đến lúc sau này, khi Mẹ được hỏi để chia sẽ về sự đen tối trống vắng, một sự thử thách tương tự về mặt tín ngưỡng mà những người nghèo khổ và cơ cực đang phải chịu đựng, và Mẹ Têrêsa đã chia sẽ ra là vì lợi ích của họ và vì tình yêu thương của Mẹ dành cho Thiên Chúa.

Mẹ Têrêsa được cho phép để có cảm giác giống như thể Thiên Chúa không có hiện diện vậy, và đó chính là điều đầu tiên mà Mẹ Terêsa phải gánh chịu sự đau khổ quằn quại về việc mất đi khoảng cách giữa những cảm xúc và tín ngưỡng của Mẹ, dẫu vậy Mẹ Têrêsa vẫn chưa hề có cái cảm giác rằng Mẹ đã thiếu mất đi đức tin bao giờ.

Thực chất mà nói, đêm tối của Mẹ Têrêsa đã tiết lộ ra được chiều sâu bị dấu kín đi về đức tin của Mẹ Têrêsa theo cách mà người có đức tin suy yếu sẽ không thể nào có thể chịu đựng được. Sự tăm tối của Mẹ Têrêsa không những cho phép Mẹ Têrêsa thực thi đức tin trỗi vượt của Mẹ lên tới đỉnh cao một cách trọn vẹn, mà nó còn cho phép chúng ta – những người môn đệ thời nay vốn vẫn thường có “đức tin rất suy yếu, nhỏ nhoi” – có thể khám phá ra những chiều kích thực sự có thể của đức tin, thậm chí trong cả lúc bị ép buộc nhất, và thậm chí cả trong bóng đêm.

Mẹ Têrêsa muốn khích lệ tất cả chúng ta hãy làm điều tương tự trong bối cảnh Calcutta riêng của chúng ta, trong đêm tối riêng của chúng ta, tức là: thay vì cho phép những thử thách và nổi đớn đau trở thành một thứ tù nhân trói chặt cuộc đời của chúng ta, thì chúng ta có thể - theo như cách Mẹ Têrêsa đã từng làm - đó là biến nổi đau đó bắt thành nhịp cầu để đến với nổi đau của những người khác, để tạo nên một sự gắn bó đoàn kết, và một chất xúc tác cho lòng bác ái.

(H): Thưa Cha, mối quan hệ của Mẹ Têrêsa với Đức Maria đã hổ trợ cho Mẹ Têrêsa như thế nào trong những khoảng thời gian bị thử thách này?

(T): Cũng giống như những người Israel xưa kia được trao cho một cột lửa để dẫn đường họ trong đêm tối, thì Mẹ Têrêsa cũng được trao ban cho ánh sáng hướng dẫn riêng để giúp Mẹ Têrêsa vượt qua đêm tối của đức tin bởi chính Đức Trinh Nữ Maria.

Món quà mà Chúa Giêsu đã gởi trao lại cho Thánh Gioan trên đồi Calvary và cho các môn đệ cùng các Thánh của Ngài qua suốt mọi thời đại, chính là Đức Maria – thì chính Đức Maria đã cũng cố và thêm sức mạnh cho Mẹ Têrêsa để Mẹ Têrêsa có thể gánh vác được nổi đau riêng của mình, và cũng để gánh thay nổi đau đó cho những người nghèo khổ, côi đơn và góa bụa.

Đức Trinh Nữ Maria đã giúp cho Mẹ Têrêsa không những tin tưởng vào đêm tối, mà còn mến yêu luôn cả đêm tối – nhằm để chuyển hoán mầu nhiệm của Thập Giá – ngay trong chính nội tâm của Mẹ Têrêsa và của tất cả những ai sống chung quanh Mẹ, và để gieo trồng những hạt giống về sự phục sinh của Thiên Chúa.

Cũng giống như chính Đức Maria đã mang Thánh Gioan cùng với 12 Môn Đệ, mãi trung thành đứng dưới cây thập giá trên đồi Calvary xưa kia, thì giờ đây cũng chính Đức Maria – Người đã mang đến cho Mẹ Têrêsa thông qua biển đời khổ đau của những kẻ bất hạnh trước mặt Mẹ Têrêsa, để qua đó chiếu tỏa ánh sáng về tình yêu của Thiên Chúa nơi những người khổ nghèo.

(H): Thưa Cha, Cha đã học được điều gì về Đức Maria thông qua Mẹ Têrêsa?

(T): Cuốn sách mà tôi viết là chính là một cuốn toát yếu về những gì mà tôi đã học biết được về Đức Maria trong suốt nhiều năm, và từ việc nhìn ngắm và lắng nghe Mẹ Têrêsa - vị Thánh của Những Người Cùng Khổ này. Đó chính là một lời biện giải giản đơn về vai trò của Đức Maria, được gói gọn không phải qua những thuật bút chiến (polemics), mà qua chiếc áo xari khiêm tốn của một trong những người làm chứng tá mọn hèn nhất cho Phúc Âm theo cách dễ tiếp xúc và gần gũi nhất.

Thật không thể nào xét nghiệm về đức tin của Mẹ Têrêsa mà không bị nhắc nhớ về chính đức tin của Mẹ Têrêsa đã dành cho Đức Maria. Dẫu sự tăm tối của Đức Maria đựng chứa nhiều chiều kích và góc cạnh khác nhau, thế nhưng chính Đức Maria Thành Nazarét cũng đã từng sống qua những đêm tăm tối về đức tin của Đức Maria.

Hãy suy gẫm về những tháng dài ngờ vực của Giuse, về việc không tìm ra được phòng trọ nơi Bêlem; về việc phải rời Ai Cập, về những năm dài vắng bóng của Chúa Giêsu nơi thành Nazarét, về những giây phút khổ nạn của Con Mình trên thập giá, và về nổi khổ đau riêng của Đức Maria khi đặt Con Mình nằm trong mộ. Chính từ những biến cố này, mà Đức Maria đã rút ra được những bài học về đức tin để Mẹ chia sẽ lại cho một thiếu phụ trẻ tuổi là Mẹ Têrêsa.

Cuộc sống riêng của Mẹ Têrêsa, và việc Mẹ Têrêsa ý thức được về vai trò của Người Mẹ của Thiên Chúa, cũng phần nào giống với việc Đức Maria đã từng “liên lũy đi viếng” hay “vội vã” đi báo tin của Thiên Chúa cho những người khác. Cái nhìn về Đức Maria đó không những qua việc cảm nghiệm riêng của Mẹ Têrêsa, mà nó cũng còn xuất rễ rất sâu trong Thánh Kinh.

Sau cùng Mẹ Têrêsa không phải là người để đề cập tới mà là mầu nhiệm về Đức Maria, vì Mẹ Têrêsa vẫn thường hay thực hiện về mầu nhiệm của Chúa Kitô ẩn hiện nơi những người nghèo khổ đó là: “Hãy đến và xem.”

(H): Thưa Cha, những cái nhìn của Mẹ Têrêsa trong tư cách là một người phụ nữ trẻ đã ảnh hưởng như thế nào về sự sùng kính của Mẹ Têrêsa dành cho Đức Maria?

(T): Khoảng năm 1947, sau nhiều tháng nhận được ơn huệ phi thường mà Chúa Giêsu đã giải thích rất chi tiết về sứ mạng mà Mẹ Têrêsa sẽ đảm nhiệm, Mẹ Têrêsa đã được Thiên Chúa ban cho một viễn ảnh, vốn đã trở thành những yếu tố chính trong ơn gọi mới của Mẹ.

Mẹ Têrêsa được Thiên Chúa cho trông thấy một “đám đông rất lớn” những người nghèo khổ thuộc đủ loại, “được che đậy trong bóng đêm” – một bóng đêm mà chẳng bao lâu đó chính Mẹ Têrêsa cũng cảm nghiệm lấy. Đức Maria lúc đó đang đứng giữa những người nghèo khổ đó, và Đức Maria gọi những người đó chính là con cái của Mẹ.

Chính Mẹ Têrêsa đã nhìn thấy điều đó trong tư cách là “một đứa trẻ thơ,” đang đứng trực diện với Đức Maria, giống thể như đứng rất gần với Đức Maria và dần dà bị cuốn hút qua sự hiện diện của chính Đức Maria vậy. Điều mà Mẹ Têrêsa đã nhìn thấy trong viễn ảnh đó là ngày đó thật sự rồi cũng sẽ đến, vì sứ mạng của Mẹ Têrêsa đã trở thành một kiểu “sứ mạng nối dài của Đức Maria” (extension mission of Our Lady) tại các đồi Calvary của thế giới này.

Khi được hỏi bởi vị cố vấn tâm linh về việc làm cách nào mà Mẹ Têrêsa dự định hoàn tất sứ vụ dường như không thể nào thực hiện được mà Chúa Giêsu đã đòi hỏi nơi Mẹ Têrêsa, thì Mẹ Têrêsa chỉ đơn giản đáp lại rằng Mẹ đang đặt “tất cả sự tin tưởng và phó thác” của Mẹ vào sự hiện diện của Đức Maria.

Mẹ Têrêsa chưa bao giờ nghi ngờ về điều đó cả, mà trái lại Mẹ được phấn khích bởi cùng chính đức tin đã gìn giữ Đức Maria trong giờ phút tăm tối nhhất của Đức Maria trên đồi Calvary, rằng Người Con của Thiên Chúa được dấu kín bên dưới “sự cải trang đau khổ” của tất cả những ai đã chứng kiến sự Khổ Nạn của Ngài. Như chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố trong Phúc Âm của Thánh Máthêu xưa kia, thì nay Mẹ Têrêsa cũng rất thích lặp lại câu nói: “Bất kỳ điều gì các con làm cho những người bé mọn này nhất … chính là các con làm cho Ta.”

Kể từ viễn ảnh của năm 1947 về sự chuyển hoán cuộc sống cho mãi tới lúc Mẹ Têrêsa mất đi, thì Đức Maria luôn là Người An Ủi gần nhất của Mẹ Têrêsa, luôn là tấm gương và sự hổ trợ không mệt mõi cho Mẹ Têrêsa.

Trang Bìa Cuốn Sách của Cha Langford, MC
(H): Thưa Cha, trong cuốn sách của Cha, Cha có đề cập về bốn “thái độ quan trọng cần có của tâm hồn để cho Đức Maria can dự vào trong cuộc sống của chúng ta.” Thì liệu Cha có thể mô tả một cách vắn tắt về những thái độ đó, và làm thế nào mà Mẹ Têrêsa phát tỏa ra những thái độ này qua đời sống và công việc của Mẹ?

(T): Điều tiên quyết có trong mối quan hệ của chúng ta với Đức Maria chính là thái độ hèn mọn và nghèo khổ của tâm linh, một thái độ cần có để mở cửa nước thiêng đàng. Như Phúc Âm đã liên tục đề cập tới: “Trừ phi các con thay đổi và trở nên bé mọn như các trẻ nhỏ này” (Luca 18:17).

Thái độ tiên quyết thứ hai đó là thái độ của sự cậy trông và tín thác giản đơn của đức tin qua sự hiện diện, qua quyền năng và qua vai trò của Đức Maria trong kế hoạch của Thiên Chúa, việc biết khôn ngoan bám víu và nhờ sự chuyển cầu cũng như can dự của Đức Maria cho chúng ta trong tư cách là những trẻ thơ nhỏ mọn biết đặt trọn niềm tín thác vào bên Đức Maria.

Thứ ba là thái độ biết vâng phục một cách khiêm tốn như chính Đức Maria đã tuyên bố “Xin hãy làm như lời Sứ Thần truyền, …” nghĩa là phải có cùng tính ngoan ngoãn, hay tính dễ bảo (docility) và sự mềm mỏng (suppleness) của tâm linh như của Đức Maria, và đó cũng là điều mà chúng ta đã nhìn thấy được nơi Mẹ Têrêsa, và nơi những ai đã sống gần gũi với Đức Maria.

Thái độ tiên quyết thứ tư để có thể đến gần hơn với Đức Maria chính là thái độ trầm mặc, suy tư (contemplative) cả trong lời cầu nguyện lẫn trong cuộc sống hằng ngày – giống với tinh thần của đứa trẻ cứ mãi ngạc kinh trước vẽ uy nghiêm về việc mình được Thiên Chúa tạo dựng nên, và vẽ đẹp của việc tạo dựng đó của Thiên Chúa, cũng như khả năng để có thể tự hỏi về những hồng ân và ơn phúc mình có được là từ đâu.

(H): Thưa Cha, làm thế nào mà Đức Maria đã mang Mẹ Têrêsa đến gần với Chúa Kitô, và làm thế nào để Mẹ Têrêsa có thể mang chúng ta đến gần hơn với Chúa Kitô?

(T): Mẹ Têrêsa lúc nào cũng khám phá ra được sự hiện diện của Đức Maria ngay ở luôn bên mình, nơi các ổ chuột, để Đức Maria thánh hóa cho dẫu là những nơi đó có xấu xa hay bẩn thỉu đến cỡ nào, và ngay cả với những điều đẹp đẽ cho dẫu chúng chẳng có hấp dẫn gì cho lắm, … Chính Mẹ Maria đã mở những chân trời đen tối nhất ra cho ánh sáng ơn huệ của Thiên Chúa.

Đối với Mẹ Têrêsa, Đức Maria chính là đám mây tuôn xuống trong túp liều quy tụ tất cả mọi người hội họp như được đề cập trong Cựu Ước, và mang đến một không khí hết sức thiêng liêng được lấp đầy bởi sự hiện diện của Thiên Chúa ngay ở nơi đó, hòng đem lại nơi trú ẩn nhằm thánh hóa và biến chuyển tất cả mọi sự, được tiền định cho chúng ta, và để chuẩn bị chúng ta cho cuộc gặp gỡ với chính Thiên Chúa.

Mẹ Têrêsa xác tín rằng trong khoảng không gian linh thiêng này, tất cả những điều mà Thiên Chúa mong mõi nơi Mẹ Têrêsa sẽ được tỏ bày ra. Còn trong Đức Maria, Mẹ Têrêsa đã tìm thấy được một con đường đặc ân để đến được với mầu nhiệm về tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, được trao ban nơi Chúa Giêsu.

Đối với Mẹ Têrêsa, Đức Maria chính là vị đại diện cho “sự đáp trả tuyệt đối” của nhân loại lên cho Thiên Chúa, lời đáp trả cao nhất và trọn vẹn nhất trước lời gọi mời của Thiên Chúa dành cho chúng ta là hãy yêu chính mình và yêu mến tất cả mọi người. Như Đức Maria đã trở nên nguồn an ủi cho Thánh Gioan trước những nghịch cảnh về sự yếu đuối của con người, khi vị Thánh leo lên đồi Calvê, thì Đức Maria cũng là nguồn an ủi cho Mẹ Têrêsa trong cùng một nghịch cảnh tương tự, khi Mẹ Têrêsa chui thẳng vào bên trong những hố sâu thẳm nơi các ổ chuột ở Calcutta.

Mẹ Têrêsa sẽ gọi mời tất cả chúng ta, cũng như tất cả các Chị-Em Đệ Tử của Mẹ, là hãy cho phép Đức Maria trở thành nguồn giải pháp chính, hay nguồi ủi an chính trong cuộc đời của tất cả chúng ta, khi chúng ta diện đối với những thử thách và những đòi hỏi của dòng đời để biết theo Chúa Giêsu, là “hãy vác lấy Thập Giá hằng ngày của chúng ta” để đi theo Ngài, ngay trong những điểm Calcutta tăm tối nhất trong chính trái tim sâu thẳm của chúng ta.

Với trọn lòng mến vào Mẹ Têrêsa, Mẹ Têrêsa đã lưu tâm và khích lệ tất cả chúng ta hãy hướng về Chúa Giêsu, về lời mời gọi rất long trọng của Ngài “Hỡi Môn Đệ, Đây là Mẹ Con!”

P.S.:

(1) Để tìm hiểu về Cuốn Sách “Mẹ Têrêsa: Trong Bóng Râm của Đức Maria” (Mother Teresa: In the Shadow of Our Lady), xin mời Quý Vị hãy vào thăm trang Web tại địa chỉ: http://www.osv.com/BooksNav/MotherTeresaIntheShadowofOurLady/tabid/4738/Default.aspx.

(2) Để tìm hiểu thêm về Ơn Gọi của Dòng Các Cha Truyền Giáo Bác Ái, xin mời các bạn nam hãy vào thăm trang Web tại địa chỉ: http://www.mcpriests.com/
 
Ngày Thế Giới cầu cho Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc
LM Trần Đức Anh, OP
08:07 17/05/2008
VATICAN - Thứ bẩy 24-5-2008 là Ngày thế giới Cầu Nguyện lần đầu tiên cho Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc.

Kinh Đức Mẹ Tắc San

Hôm 16-5-2008, Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã phổ biến Kinh do ĐTC Biển Đức 16 soạn và mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho Giáo Hội Tại Trung Quốc:

Lạy Mẹ Chí Thánh, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể và là Mẹ chúng con, được tôn kính tại Đền Thánh Tắc San dưới danh hiệu ”Đức Mẹ Phù Hộ các tín hữu”, Mẹ là Đấng mà toàn thể Giáo Hội tại Trung Quốc hướng nhìn với lòng kính mến sâu xa, hôm nay chúng con đến trước Mẹ để khẩn cầu sự bảo bọc của Mẹ. Xin Mẹ nhìn đến dân Chúa và với lòng từ mẫu hướng dẫn họ trên con đường chân lý và tình thương, để trong mọi hoàn cảnh, họ là men cuộc sống chung hòa hợp giữa mọi công dân.

Do lời ngoan ngoãn ”Xin vâng” tại Nazareth, Mẹ đã để Con vĩnh cửu của Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng trinh khiết của Mẹ và nhờ đó đưa công trình Cứu Chuộc đi vào lịch sử, và sau đó Mẹ đã cộng tác với công trình này với lòng tận tụy ân cần, chấp nhận lưỡi gươm khổ đau đâm thâu qua tâm hồn Mẹ, cho đến giờ tột đỉnh của Thánh Giá, trên đồi Can Vê, lúc Mẹ đứng cạnh Chúa Con chịu chết để loài người được sống.

Từ đó, theo một thể thức mới mẻ, Mẹ trở thành Mẹ của tất cả những người đón nhận trong đức tin Đức Giêsu Con của Mẹ và chấp nhận theo Chúa bằng cách vác Thánh Giá Chúa trên vai. Lạy Mẹ hy vọng, trong tăm tối của Ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh, với niềm tin tưởng không lay chuyển, Mẹ đã tiến bước tới ban sáng ngày Phục Sinh, xin Mẹ ban cho các con cái của Mẹ, trong mọi hoàn cảnh, dù là tối tăm nhất, khả năng nhận ra những dấu chỉ sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa.

Lạy Đức Mẹ Tắc San, xin nâng đỡ sự dấn thân của tất cả những người tại Trung Quốc, giữa những khó khăn thường nhật, đang tiếp tục tin tưởng, hy vọng, yêu mến, để họ không bao giờ sợ nói với thế giới về Chúa Giêsu và nói với Chúa Giêsu về thế giới. Nơi pho tượng trên đỉnh Đền Thánh, Mẹ giơ cao Chúa Con, giới thiệu Ngài cho thế giới với vòng tay giang rộng như một cử chỉ yêu thương. Xin Mẹ giúp các tín hữu Công Giáo luôn luôn là những chứng nhân đáng tin về tình yêu này, xin Mẹ giữ gìn họ hiệp nhất với đá tảng là Phêrô, trên đó Giáo Hội được kiến thiết. Lạy Đức Mẹ Trung Quốc và Á Châu, xin cầu cho chúng con bây giờ và mãi mãi. Amen!

Ngày thế giới Cầu Nguyện lần đầu tiên cho Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc do ĐTC Biển Đức 16 đề xướng trong thư đề ngày 27-5-2007 gửi các tín hữu Công Giáo tại nước này:

”Các vị Mục Tử và tất cả các tín hữu rất quí mến, ngày 24-5 được phụng vụ dành để kính nhớ Đức Mẹ Maria Phù Hộ các tín hữu Kitô: Mẹ rất được sùng kính tại Đền Thánh Đức Mẹ Tắc San ở Thượng Hải. Ngày này trong tương lai có thể trở thành dịp để các tín hữu Công Giáo trên toàn thế giới hiệp ý cầu nguyện với Giáo Hội tại Trung Quốc.

”Tôi mong ước rằng ngày này đối với anh chị em là một ngày cầu nguyện cho Giáo Hội tại Trung Quốc. Tôi khuyên anh chị em cử hành ngày này bằng cách canh tân sự hiệp thông của anh chị em trong đức tin nơi Đức Giêsu Chúa chúng ta và sự hiệp thông trung thành của anh chị em với Đức Giáo Hoàng, cầu nguyện để sự hiệp nhất giữa anh chị em ngày càng sâu đậm và hữu hình. Ngoài ra, tôi nhắc nhớ anh chị em về giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, hãy yêu thương cả những kẻ thù địch và cầu nguyện cho những kẻ bách hại anh chị em, và tôi nhắc anh chị em lời mời của Thánh Phaolô Tông Đồ: ”Trước tiên tôi khuyên anh em hãy cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Ngài muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,1-4).

”Trong cùng ngày ấy, các tín hữu Công Giáo trên toàn thế giới, đặc biệt là những người gốc Trung Hoa, hãy chứng tỏ tình liên đới huynh đệ và mối quan tâm ân cần đối với anh chị em, xin Chúa là Chúa Tể của lịch sử ban ơn kiên trì làm chứng tá, xác tín chắc chắn rằng những đau khổ anh chị em đã và đang phải chịu vì danh Thánh Chúa Giêsu và lòng trung thành kiên cường của anh chị em với Vị Đại Diện Chúa Kitô trên mặt đất này sẽ được tưởng thưởng, cho dù đôi khi tất cả mọi sự có vẻ là một sự thất bại đau buồn” (n.19).

Vài nét về Đền Thánh Đức Mẹ Tắc San

Cách đây 20 năm, ĐTC Gioan Phaolô 2, trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 21-8 năm 1988, đã mời gọi các tín hữu đi hành hương trong tinh thần đến Đền Thánh Đức Mẹ Tắc San, được nâng lên hàng Tiểu Vương Cung thánh đường hồi năm 1942. Ngài nói:

”Tắc San cách Thượng Hải 50 cây số. Nhờ phong cảnh đẹp và khí hậu ôn hòa, đồi Tắc San là một nơi thu hút nhiều khách du lịch.

Vào thế kỷ 18, hai Hoàng Đế từ Bắc Kinh đã đến viếng thăm nơi này. Một trong hai vị là Hoàng Đế Khang Hy đã đặt tên cho nơi này là ”Núi Thanh Trúc”. Thực tế là ngọn đồi này có trồng nhiều loại cây trúc mà các bức họa Trung Hoa, qua các thế kỷ vẫn thường vẽ, và mầm cây là măng vẫn được coi như món ăn được dân tộc cổ kính này ưa thích.

Tin Mừng được truyền đến Tắc San vào năm 1844. Các thừa sai xây cất tại đây một căn nhà 5 gian, trong đó có một gian được dùng làm nhà nguyện, các gian khác làm nơi ở. Năm 1864, một tu huynh người Hoa kiến thiết trên đỉnh đồi một cái chòi lục giác, và đặt trong đó ảnh Đức Mẹ do chính thày vẽ và tôn kính dưới tước hiệu ”Đức Mẹ Phù Hộ các tín hữu”. Từ đó, lòng sùng kính Đức Mẹ Tắc San, ”Phù Hộ các tín hữu” lan ra trong vùng và mỗi năm, vào ngày 24-5, lễ Đức Mẹ được cử hành trọng thể tại đây.

Hiện nay tại Tắc San có hai nhà thờ: một ở lưng chừng đồi và một ở trên đỉnh đồi. Nhà thờ trên đỉnh này được kiến thiết hồi năm 1873 và tái thiết năm 1925, có một tháp chuông cao 33 mét, trên nóc có một tượng Đức Mẹ bằng đồng, tay đang giơ cao Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đang giang rộng hai tay như ban phép lành, và từ xa trông giống như thánh giá lớn đang trải rộng trên Trung Quốc.

Nhà thờ ở lưng đồi được xây hồi năm 1894. Ở bên cạnh cổng vào có 2 câu đối với 2 hàng chữ. Một hàng ghi: ” Nhà nguyện ở lưng chừng đồi; chúng ta hãy dừng lại một lát, để gia tăng lòng kính mến con thảo đối với Đức Mẹ ”. Hàng chữ thứ hai viết: ” Nhà thờ lớn ở trên đỉnh đồi; chúng ta hãy bước lên vài bậc, để xin phúc lành của Từ Mẫu”.

Chung quanh Tắc San có nhiều kênh. Nhiều ngư phủ sống trên thuyền, phần lớn là các tín hữu Công Giáo nhiệt thành.

”Mỗi năm trong tháng 5, họ đến hành hương tại Đền Thánh và cùng với họ có nhiều tín hữu khác đến từ các nơi ở Trung Quốc. Trong năm Thánh Mẫu, các cuộc hànhhương không ngừng nối tiếp nhau mỗi tháng. Tôi muốn hiệp ý trong tinh thần với cuộc hành hương của các tín hữu Trung Hoa, xin họ cầu nguyện cho tôi. Cùng với họ, tôi bày tỏ lòng kính mến con thảo đối với Đức Mẹ Tắc San và phó thác cho Mẹ mối quan tâm của tôi đối với toàn thể Giáo Hội, đặc biệt là đối với Giáo Hội tại Trung Quốc”. ”Lạy Mẹ Maria, là ơn phù trợ các tín hữu Kitô, xin cầu cho chúng con”.
 
Đức Thánh Cha kêu gọi các chính quyền giúp đỡ các gia đình
LM Trần Đức Anh, OP
08:08 17/05/2008
VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các chính phủ đề ra những chính sách thích hợp để giải quyết tình trạng bấp bênh về xã hội của các gia đình, và đừng đồng hóa gia đình với những hình thức sống chung khác.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 16-5-2008 dành cho 200 đại diện của Diễn đàn các hiệp hội gia đình và của Liên hiệp Âu Châu các hiệp hội gia đình Công Giáo.

Trong diễn văn bằng tiếng Ý, Pháp, Đức và Anh, tại buổi tiếp kiến, ĐTC ghi nhận gia đình ngày nay đang gặp phải bao nhiêu thách đố khiến cho việc thực hiện lý tưởng chung thủy và tình yêu hôn nhân vững bền, sinh sản và nuôi dưỡng con cái, bảo tồn sự hòa hợp trong tổ ấm gia đình gặp nhiều khó khăn. Tuy có nhiều tấm gương sáng ngời của các gia đình vững chắc và cởi mở đối với nền văn hóa sự sống và tình thương, nhưng cuộc khủng hoảng hôn nhân và gia đình đang gia tăng. Bao nhiêu gia đình trong hoàn cảnh bấp bênh đáng lo ngại đang kêu cứu, thỉnh cầu các vị hữu trách trong chính quyền, cộng đồng Giáo Hội và các cơ quan giáo dục khác cứu giúp.

Trong bối cảnh trên đây, ĐTC ca ngợi sáng kiến dấn thân động viên các công dân nhắm cổ võ một nền thuế khóa phù hợp với gia đình, để các chính phủ thăng tiến một chính sách gia đình, giúp các cha mẹ có khả năng cụ thể có con cái và giáo dục chúng trong gia đình.

ĐTC cũng nhận định rằng đối với các tín hữu Kitô, gia đình chính là một giáo hội tại gia, được mời gọi biểu lộ cho thế giới tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, ngài nói: ”Anh chị em thân mến, hãy giúp các gia đình trở thành dấu chỉ hữu hình về chân lý ấy, bảo vệ các giá trị được ghi khắc trong chính bản tính con người, và chung cho toàn thể nhân loại, tức là sự sống, gia đình và giáo dục. Đó không phải là những nguyên tắc xuất phát từ một tín ngưỡng, nhưng là từ sự áp dụng công bằng, tôn trọng các quyền của mỗi người. Đó cũng là sứ mạng của các gia đình Kitô”.

Liên hiệp Âu Châu các hiệp hội gia đình Công Giáo hiện diện tại 7 quốc gia khác nhau, nhắm thăng tiến các giá nhân bản và Kitô của hôn nhân và gia đình nơi các tổ chức chính quyền Âu Châu, bênh vực quyền lợi của gia đình và các phong trào gia đình Công giáo trên bình diện đại lục, cổ võ sự cộng tác giữa các thành viên và nâng đỡ các hoạt động của họ trên bình diện quốc gia và quốc tế. (SD 16-5-2008)
 
Hội Đồng Giáo Hoàng Về Gia Đình:Tập Chỉ Dẫn Chuẩn Bị Lãnh Nhận Bí Tích Hôn Phối (5)
Vũ Văn An
08:10 17/05/2008
Tập Chỉ Dẫn Chuẩn Bị Lãnh Nhận Bí Tích Hôn Phối (5), Vatican 1996

C. Chuẩn bị kế cận

50. Một khi lộ trình thích hợp và các khóa học chuyên biệt đã được theo đuổi và đã diễn ra tốt đẹp trong giai đoạn chuẩn bị gần (xem số 32 và kế tiếp), thì mục tiêu của việc chuẩn bị kế cận sẽ bao gồm những điều sau đây: a) Tổng hợp giai đoạn chuẩn bị trước đặc biệt là nội dung học thuyết, luân lý và thiêng liêng, nhờ thế có thể hoàn tất những thiếu sót có thể có trong việc huấn luyện căn bản; b) Các kinh nghiệm cầu nguyện (cấm phòng, linh thao cho các cặp đính hôn) trong đó việc gặp gỡ với Chúa sẽ giúp họ khám phá ra chiều sâu và vẻ đẹp của đời sống thiêng liêng; c) chuẩn bị phụng vụ thích đáng nhằm để các cặp đính hôn tham dự tích cực vào đó, đặc biệt nên chú ý đến bí tích Hòa giải; d) Sử dụng tốt các buổi nói chuyện theo giáo luật được dự kiến với cha xứ, để mọi người tìm biết nhau tốt hơn. Những mục tiêu trên sẽ thực hiện được qua các buổi gặp gỡ có tính kỹ luỡng hơn.

51. Sự hữu ích của mục vụ và kinh nghiệm tích cực của các khoá dự bị hôn nhân cho thấy chúng chỉ nên được tổ chức vì những lý do nghiêm túc cân xứng. Cho nên, nếu có những cặp đến xin cử hành hôn phối khẩn cấp mà chưa được chuẩn bị gần, thì cha xứ và các cộng sự viên có trách nhiệm sẽ cung hiến cho họ cơ hội để học bù những kiến thức về các khía cạnh học thuyết, luân lý và bí tích đã dự bị cho giai đoạn chuẩn bị hôn nhân gần để rồi sau dó cho họ được chuẩn bị kế cận. Điều này được yêu cầu vì sự cần thiết phải bản thân hóa các lộ trình huấn luyện một cách thực tiễn, dùng mọi cơ hội để đào sâu ý nghĩa về những điều sẽ xẩy ra trong bí tích, mà không từ khước những người tỏ ra có tư chất về đức tin và bí tích chỉ vì họ vắng mặt trong một giai đoạn chuẩn bị nào đó.

52. Việc chuẩn bị kế cận để lãnh nhận bí tích Hôn phối phải tìm cơ hội thuận tiện để dẫn khởi cặp đính hôn vào chính nghi thức hôn phối. Trong việc chuẩn bị này, trong khi đào sâu học thuyết Kitô Giáo về hôn nhân và gia đình với chú trọng đặc biệt tới các bổn phận luân lý, cặp đính hôn phải được hướng dẫn để nắm phần hiểu biết và tích cực trong việc cử hành hôn phối, và hiểu được ý nghĩa các hành vi và các bản văn phụng vụ.

53. Việc chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hôn phối này phải là điểm kết thúc của giáo lý giúp các cặp đính hôn Kitô hữu dò lại được hành trình bí tích của họ một cách hiểu biết. Điều quan trọng là họ phải biết rằng họ đang kết hiệp với nhau nên một trong hôn nhân trong tư cách là những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô, nên họ phải cư xử phù hợp với Chúa Thánh Thần trong cuộc sống gia đình của họ. Như thế, quả là đúng nếu các cặp vợ chồng tương lai biết chuẩn bị sẵn sàng cho việc cử hành hôn phối sao cho nó được thành sự, xứng đáng và có kết quả, bằng cách lãnh nhận bí tích Hòa giải (xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, số 1622). Việc chuẩn bị phụng vụ để cử hành bí tích Hôn phối phải bao gồm phần lớn những yếu tố của nghi thức hiện hành. Để chỉ rõ mối liên hệ thân thiết giữa bí tích hôn nhân và mầu nhiệm vượt qua, việc cử hành hôn phối thường diễn ra trong cử hành Thánh Thể.

54. Để Giáo Hội trở nên hữu hình trong giáo phận và chỉ rõ điều đó trong giáo xứ, ta hiểu được việc tất cả các chuẩn bị mục vụ cũng như giáo luật để lãnh bí tích hôn phối phải được kết thúc trong giáo xứ và giáo phận. Như thế, càng phù hợp hơn nữa với ý nghĩa Giáo Hội của bí tích hôn phối khi nó thường được cử hành trong nhà thờ của cộng đoàn giáo xứ nơi cặp hôn phối là thành viên (CIC, điều 1115). Ước mong thay toàn thể cộng đồng giáo xứ tham dự vào việc cử hành này, chung quanh các gia đình và bằng hữu của cặp đính hôn. Nên dự liệu việc đó trong nhiều giáo phận, dù cần phải lưu ý đến các hoàn cảnh địa phương, nhưng phải nhất quyết ưu đãi các hành động mục vụ có tính Giáo Hội thực sự.

55. Những người sẽ tham dự tích cực vào phụng vụ cũng phải được mời chuẩn bị thích đáng lãnh nhận bí tích Hòa giải và Thánh thể. Cần phải giải thích cho các người làm chứng rằng họ không phải chỉ là những người bảo đảm cho một hành vi pháp lý, nhưng còn là đại diện của cộng đoàn Kitô hữu, là cộng đoàn, qua họ, dự phần vào một hành vi bí tích liên hệ đến chính mình, vì một gia đình mới chính là một tế bào của Giáo Hội. Vì đặc điểm có yếu tính xã hội của nó, hôn nhân kêu gọi sự tham dự của xã hội và điều này được diễn tả qua sự hiện diện của các người chứng.

56. Phù hợp với quyết định của Đấng Bản quyền và qua chức linh mục chung, gia đình là nơi thích hợp nhất trong đó cha mẹ có thể tiến hành một vài hành vi thánh và cử hành một vài á bí tích, như trong bối cảnh của Nghi thức Khai Tâm Kitô Giáo, trong những biến cố buồn vui của cuộc sống hàng ngày, trong việc đọc lời nguyện trước các bữa ăn. Phải dành chỗ đặc biệt cho việc gia đình cầu nguyện. Điều ấy sẽ tạo nên một bầu khí đức tin ngay bên trong tổ ấm và sẽ là phương thế sống thực một cách phong phú hơn tư cách làm cha làm mẹ đối với các con, dạy chúng cầu nguyện và dẫn đưa chúng vào việc khám phá ra dần dần mầu nhiệm Thiên Chúa và việc đối thoại bản thân với Ngài. Cha mẹ nên nhớ rằng họ thực thi sứ mệnh công bố Tin Mừng sự sống qua việc giáo dục con cái mình (xem EV, 92).

57. Chuẩn bị cận kề là cơ hội thuận tiện để bắt đầu công việc mục vụ liên tục về hôn nhân và gia đình. Từ quan điểm này, việc chuẩn bị cần được thi hành sao cho các cặp vợ chồng biết được sứ mệnh của họ trong Giáo Hội. Ở đây họ được sự trợ giúp phong phú từ các phong trào chuyên biệt về gia đình, ngõ hầu có thể vun sới được một linh đạo hôn nhân và gia đình và một cách thế chu toàn các trách vụ trong gia đình, trong Giáo Hội và trong xã hội.

58. Việc chuẩn bị các cặp đính hôn phải được kèm theo với lòng sùng kính Đức Mẹ một cách chân thành và sâu sắc, vì Mẹ là Mẹ Giáo Hội, và là Nữ vương Gia đình. Phải dạy cho chính các cặp đính hôn biết nhìn nhận rằng sự hiện diện của Đức Mẹ trong gia đình, tức Giáo Hội tại gia, cũng sinh động như sự hiện diện của Người trong Giáo Hội nói chung. Cũng thế, phải dạy cho họ biết bắt chước các nhân đức của Đức Mẹ. Như thế, Thánh Gia, tức gia đình của Chúa Giêsu, của Đức Mẹ và Thánh Giuse, sẽ làm cho những người đính hôn khám phá ra rằng "việc giáo dục trong gia đình ngọt ngào và không thể thay thế được đến chừng nào" (Paul VI, Diễn Văn Tại Nazareth, 5-1-1964).

59. Việc chia sẻ với người khác bất cứ điều gì đã được đề nghị một cách đầy sáng tạo nơi các cộng đoàn để làm cho việc chuẩn bị gần và kế cận sâu sắc hơn và đầy đủ hơn sẽ là một quà tặng và một việc làm phong phú đối với toàn thể Giáo Hội.

Phần III: Cử hành hôn phối

60. Chuẩn bị hôn nhân dẫn tới cuộc sống lứa đôi xuyên qua việc cử hành bí tích, là chung cuộc của hành trình chuẩn bị mà hai người phối ngẫu đã thực hiện và là ngọn nguồn của đời sống vợ chồng. Do đó, việc cử hành không thể bị thu gọn lại chỉ trong một buổi lễ, vốn chỉ là sản phẩm của văn hóa và điều kiện hóa có tính xã hội học. Dù vậy, những tập tục đáng ca ngợi của những dân tộc hoặc các nhóm sắc tộc khác nhau có thể được đưa vào việc cử hành (xem Sacrosanctum Concilium 77; Familiaris Consortio, 67), miễn là trước hết chúng phát biểu được việc đến với nhau của hợp đoàn Giáo Hội như là dấu chỉ đức tin của Hội Thánh, biết nhìn nhận trong bí tích sự hiện diện của Chúa phục sinh có sức kết hiệp hai người phối ngẫu vào Tình Yêu Ba Ngôi.

61. Qua các ủy ban phụng vụ của giáo phận, các giám mục nên ra những chỉ thị chính xác và giám sát xem các chỉ thị ấy có được áp dụng trên thực tế hay không để, trong việc cử hành hôn phối, có thể đem ra thi hành điều đã được qui định tại khoản 32 Hiến Chế Mục Vụ ngõ hầu ngay từ bên ngoài sự bình đẳng của các tín hữu cũng được nhận ra rõ rệt và, đàng khác, bất cứ vẻ phù phiếm nào cũng phải tránh được. Bằng bất cứ cách nào cũng phải khuyến khích những người hiện diện tham dự một cách tích cực. Phải cung cấp các bản văn thích hợp để giúp họ hiểu và thưởng ngoạn được vẻ phong phú của nghi lễ.

62. Nên nhớ rằng hễ đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh Chúa Kitô (xem Mt 18:20), thì Ngài hiện diện nơi đó, cho nên dù là cử hành có tính hạn chế (điều nên tiếp tục trong những lễ lạc sau đó) cũng không những phải là một biểu thức của đức tin cộng đoàn, mà còn là nguyên động lực để ca tụng Chúa. Cử hành hôn phối trong Chúa và trước mặt Hội thánh có nghĩa là tuyên xưng rằng quà phúc ơn thánh được ban cho hai vợ chồng nhờ việc hiện diện và tình yêu của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đòi phải có sự đáp ứng thực tiễn, bằng đời sống thờ phượng trong tinh thần và chân lý ngay trong gia đình Kitô hữu, tức "Giáo Hội tại gia". Chính vì việc cử hành phải được hiểu không chỉ là hành vi pháp lý nhưng còn là một thời điểm trong lịch sử cứu độ của hai người phối ngẫu, và qua chức linh mục chung của họ, vì lợi ích của Giáo Hội và xã hội, cho nên cần phải giúp mọi người hiện diện tham dự tích cực vào chính việc cử hành.

63. Bất cứ ai chủ toạ cũng phải có nhiệm vụ sử dụng mọi khả năng có thể có của sách nghi thức, nhất là ấn bản lần thứ hai do Bộ Phụng tự và Kỷ Luật Bí tích ban hành năm 1991, để làm nổi bật vai trò của những người cử hành bí tích, mà theo các Kitô hữu của Nghi lễ Latinh là chính hai người phối ngẫu, cũng như giá trị bí tích của việc cử hành của cộng đoàn. Với công thức trao đổi lời ưng thuận, hai vợ chồng luôn nhớ đến khía cạnh bản thân, Giáo Hội và xã hội của sự ưng thuận này đối với toàn bộ cuộc sống họ, như một dâng hiến của người này dành cho người kia cho đến ngày nhắm mắt. Nghi lễ Đông phương coi vị linh mục là người giữ vai trò cử hành bí tích. Dù gì đi nữa, theo luật Giáo Hội, sự hiện diện của một linh mục hoặc một thừa tác viên có thẩm quyền khác bao giờ cũng cần thiết để sự kết hợp hôn nhân thành hiệu và rõ ràng chỉ ra ý nghĩa công khai và xã hội của giao ứơc phu phụ, để phục vụ cả Giáo Hội lẫn xã hội phàm trần.

64. Cần nhớ rằng hôn phối thường được cử hành trong Thánh lễ (xem Sacrosanctum Concilium, 78; Familiaris Consortio, 57), nên đối với một hôn nhân giữa người Công Giáo và người đã rửa tội nhưng không phải là Công Giáo, phải cử hành tùy theo những dự liệu đặc biệt về phụng vụ và giáo luật (xem Ordo Celebrandi Matrimonium - OCM, 79-117).

65. Việc cử hành sẽ lôi cuốn người ta tham dự tích cực hơn nếu họ được dẫn nhập thích đáng về ý nghĩa của bản văn phụng vụ và nội dung của các lời nguyện. Tính cách đơn giản của những dẫn nhập này nên có để làm dễ dàng việc nhớ lại và hiểu biết tầm quan trọng của việc cử hành (xem OCM, 52, 59, 87, 93, 99), và tránh không biến việc cử hành thành bài học giáo khoa.

66. Chủ tế, người chủ toạ (5) và trình bày với cộng đoàn ý nghĩa Giáo Hội của cam kết hôn nhân, sẽ cố gắng tạo được sự chú tâm của những người kết hôn cũng như thân nhân và các người chứng ngõ hầu tất cả có thể nắm vững cấu trúc của nghi thức. Điều này đặc biệt phải được áp dụng cho những phần chủ yếu nhất như Lời Chúa, trao đổi và chuẩn nhận ưng thuận, làm phép những dấu chỉ biểu hiệu hôn phối (như nhẫn v.v...), chúc lành cho đôi tân hôn, nhắc đến đôi tân hôn trong Kinh Nguyện Thánh Thể. "Các nền phụng vụ khác nhau đều phong phú về các lời cầu nguyện chúc phúc và kêu cầu ân sủng và phép lành của Thiên Chúa trên cặp vợ chồng mới, nhất là trên người vợ" (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1624). Cũng cần phải giải nghĩa cử chỉ đặt tay trên "các chủ thể thừa tác viên" của bí tích. Việc đứng, chúc bình an cho nhau hoặc các nghi thức khác cũng cần được mọi người hiện diện chú tâm một cách thích đáng.

67. Để có được một phong thái cử hành vừa có tính hạn chế vừa có tính cách cao đẹp, bất cứ ai chủ lễ cũng phải được sự phụ giúp của các thừa tác viên phụ tá cũng như của các nhân viên làm sinh động và điều khiển cộng đoàn ca hát, dẫn các đáp ca và công bố Lơi Chúa. Bằng cách cụ thể đặc biệt chú ý đến chính những người sắp kết hôn và các hoàn cảnh riêng của họ, nhưng phải tuyệt đối tránh ưu đãi cá nhân, vị chủ tế phải thích ứng mình với các dấu hiệu sử dụng trong hành vi phụng vụ. Như thế, trong khi tiếp đón và chào mừng những người sắp kết hôn, cha mẹ họ nếu hiện diện, các người chứng và những người tham dự, vị này phải là phát ngôn viên sống động của cộng đoàn để chào đón những người sắp kết hôn.

68. Việc công bố Lời Chúa phải do những ngưòi thích hợp và được chuẩn bị kỹ đảm nhiệm. Họ có thể được chọn trong số các người hiện diện, đặc biệt là các người chứng, người trong hai gia đình, bạn bè, nhưng xem ra không thích đáng khi chính cô dâu hoặc chú rể phải làm việc đó.Thực vậy, họ là những người hàng đầu tiếp nhận Lời Chúa đang được công bố. Tuy nhiên, việc lựa chọn các bài đọc có thể được làm với sự thoả thuận của hai vợ chồng trong giai đoạn chuẩn bị kế cận. Nhờ cách đó, họ sẽ dễ dàng ghi nhớ Lời Chúa trong lòng và đem ra thực hành trong đời sống.

69. Bài dẫn giảng, là bài bắt buộc phải có, phải đặt trọng tâm vào việc trình bày "mầu nhiệm cao cả" đang được cử hành trước mặt Chúa, trước mặt Giáo Hội và xã hội. "Thánh Phaolô dùng một thuật ngữ rất chính xác nhắc đến cuộc sống gia đình: nó là mầu nhiệm cao cả (Eph. 5:32) "; (Gratissimam Sane, 19). Bắt đầu với bản văn vừa được công bố về Lời Chúa cũng như các kinh nguyện phụng vụ, nên tập trung dẫn giải về bí tích, và từ đó minh họa các hậu quả đối với cuộc sống của hai vợ chồng và gia đình họ. Nên tránh không trực tiếp nhắc đến bản thân hai vợ chồng.

70. Nếu nghi thức hôn phối diễn ra trong Thánh lễ, của lễ nên được chính cặp tân hôn đem lên bàn thờ. Dù gì đi nữa, lời nguyện giáo dân đã được chuẩn bị kỹ không nên quá dài hoặc thiếu nội dung cụ thể. Khi mục vụ xem ra thích hợp, Việc Hiệp Lễ nên được thực hiện dưới cả hai Hình Mình và Máu Thánh.

71. Cần phải thận trọng để các chi tiết của việc cử hành hôn phối phải có đặc điểm của một phong thái hạn chế, đơn giản và chính xác. Sắc thái lễ lạc không nên có hình thức phô trương thái quá.

72. Việc long trọng chúc lành cho đôi tân hôn nhắc ta nhớ rằng trong bí tích hôn phối, ta khẩn khoản cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn. Nhờ ơn này, hai vợ chồng sẽ kiên trì trong sự hoà thuận hỗ tương và được nâng đỡ về phương diện thiêng liêng trong khi thi hành sứ mệnh của họ, cũng như trong những lúc khó khăn trong đời sống tương lai. Trong khung cảnh của việc cử hành này, điều chắc chắn thích hợp là trình bày Thánh Gia Nazareth như là mẫu gương sống cho các cặp vợ chồng Kitô hữu.

73. Nói về các giai đoạn chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị kế cận, tuy việc tổng hợp các kinh nghiệm thực tại để đem lại thay đổi lớn trong não trạng và các tập tục liên hệ tới việc cử hành là điều tốt, nhưng các nhân viên mục vụ phải cẩn trọng tuân theo và làm cho người ta thấu hiểu những gì hiện đã được ấn định và thiết lập trong nghi thức phụng vụ. Hiển nhiên một điều là việc thấu hiểu ấy tùy thuộc hoàn toàn vào diễn trình chuẩn bị và mức độ trưởng thành về Kitô Giáo của cộng đoàn.

Ai cũng có thể nhận ra rằng trong tài liệu này, một ít yếu tố đã được đề nghị để chuẩn bị có hệ thống cho các tín hữu được mời gọi lãnh nhận bí tích Hôn phối. Đặc biệt trong năm năm đầu cuộc sống vợ chồng, điều đáng ước ao là nên theo dõi cặp mới kết hôn qua các khóa hậu hôn nhân, được tổ chức tại các giáo xứ hoặc giáo hạt, tùy theo qui định của Tập Hướng Dẫn Mục Vụ Gia Đình đã nhắc ở các số 14 và 15 trên đây, liên quan đến Tông Huấn Familiaris Consortio, số 66.

Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình xin trao gửi đến các Hội Đồng Giám Mục các chỉ dẫn này để họ soạn thảo các tập chỉ dẫn riêng của mình. Ưu tư mục vụ của các Hội Đồng Giám Mục cũng như của các cá nhân Giám Mục sẽ đảm bảo để các chỉ dẫn này được đem ra thi hành trong các cộng đoàn Giáo Hội. Nhờ thế, mọi tín hữu đều sẽ hiểu rõ hơn rằng bí tích Hôn phối, một mầu nhiệm cao cả (Eph. 5:21 và kế tiếp) là một ơn gọi đối với đại đa số Dân Chúa.

Thành Vatican, 13 Tháng 5 Năm 1996.

Hồng y Alfonso Lopez Trujillo Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình

Francisco Gil Hellin Thư Ký

Chú thích

(1) Đề tài đã được suy tư trong cuộc họp mặt quốc tế được Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình tổ chức từ 2-4 Tháng 6 năm 1993 với sự cộng tác của Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội.

(2) Các phương pháp tự nhiên này đưa ra một giải pháp hợp lệ khi hai vợ chồng gặp khó khăn nghiêm trọng, thí dụ về sức khỏe hay lý do kinh tế, và chúng cũng nên được đề nghị trong các chính sách có trách nhiệm và đáng kính về dân số. Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình đã tổ chức một cuộc gặp mặt quốc tế với những cổ động viên của các phương pháp tự nhiên từ 9-11 Tháng 12 Năm 1992. Các phúc trình và đóng góp của các chuyên gia đã được công bố trong một bản văn dưới tiêu đề: Các Phương Pháp Tự Nhiên Để Điều Hòa Sinh Nở: Giải Pháp Chân Chính (Metodi Naturali per la regolazione della fertilità: I'alternativa autentica). Các khoa học nhân bản giúp suy tư thần học nắm được và đào sâu"sự khác biệt, cả về nhân chủng lẫn luân lý học, giữa việc chống ngừa thai và phương pháp dùng nhịp độ chu kỳ" (FC, 32).

(3) Mục vụ sẽ gợi ra những cách thế và phương tiện để đạt mục tiêu này. Thí dụ, cần ít nhất trọn một tuần lễ hoặc 4 ngày cuối tuần, kể cả Thứ bẩy và Chúa nhật, hoặc mỗi tháng một buổi chiều trong trọn một năm.

(4) Thánh Bộ Học Thuyết Đức Tin dạy rằng hôn nhân giữa các Kitô hữu không thể được coi như một cái gì riêng tư và nhắc nhớ đến học thuyết và kỷ luật của Giáo Hội: "trung thành với lời nói của Chúa Giêsu Kitô, Giáo Hội xác quyết rằng một cuộc phối hiệp mới không thể được công nhận là thành hiệu nếu cuộc hôn nhân trước vẫn còn giá trị. Nếu những người ly dị tái kết hôn ngoài dân luật, họ sẽ ở trong tình trạng chống lại luật Chúa một cách khách quan. Hậu quả là, họ không được lãnh nhận Thánh Thể bao lâu tình trạng trên còn kéo dài." (Thánh Bộ Học Thuyết Đức Tin, Thư Gửi các Giám Mục trong Giáo Hội Công Giáo liên quan đến việc Rước lễ của những Tín hữu Ly dị và Tái kết hôn, số 4, 14 Tháng 9 Năm 1994).

(5) Xem OCM, 24; CIC, điều 1111; OCM, 2s và 118-151; CIC, điều 1112.2; 1108.2).
 
Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Thái Lan
LM Trần Đức Anh, OP
08:12 17/05/2008
VATICAN - ĐTC Biển Đức 16 cổ võ sự cộng tác giữa Công Giáo và Phật giáo tại Thái Lan, đồng thời ngài kêu gọi các tu sĩ nam nữ tại nước này ưu tiên làm chứng tá.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 16-5-2008, dành cho HĐGM Thái Lan nhân dịp các vị về Roma hành hương, viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Trong bài huấn dụ ĐTC nhắc đến hiện tượng hoàn cầu hóa với khía cạnh tích cực là gia tăng các mối liên hệ kinh tế và văn hóa, tăng cường tình liên đới hoàn vũ và cùng chia sẻ trách nhiệm đối với an sinh của nhân loại. Nhưng đàng khác, hiện tượng này cũng kèm theo những dấu chỉ gây lo âu về sự phân hóa và cá nhân chủ nghĩa, trong đó chủ nghĩa duy thế tục ảnh hưởng mạnh, gạt siêu việt và cảm thức thức thánh thiêng ra ngoài lề, và làm lu mờ chính nguồn mạch sự hiệp nhất và hòa hơp trong vũ trụ”.

Đứng trước tình trạng văn hóa tiêu cực ấy, ĐTC kêu gọi tín hữu các tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo và Phật giáo tại Thái Lan, hợp tác để nỗ lực duy trì cái hồn tinh thần và luân lý của dân tộc. Ngài nói: ”Hòa hợp với các tín hữu Phật giáo, anh em có thể thăng tiến sự cảm thông lẫn nhau về sự thông truyền các truyền thống cho các thế hệ trẻ, vai trò của các giá trị luân lý đạo đức, sự tôn kính siêu việt, kinh nguyện và chiêm niệm. Những đường lối thực hành ấy phục vụ cho an sinh chung của xã hội và nuôi dưỡng chính yếu tính của mỗi người”.

ĐTC ghi nhận tầm quan trọng của các trường học và học viện Công Giáo tại Thái Lan, thường do các dòng tu nam nữ đảm trách. Về điểm này ngài nói: ”Tôi muốn kêu gọi nhiều tu sĩ nam nữ đang ân cần phục vụ trong các tổ chức giáo dục tại các giáo phận của anh em. Vai trò của họ trước tiên không phải là quản trị, nhưng là sứ mạng truyền giáo. Trong tư cách là những người thánh hiến, họ được mời gọi trở thành 'chứng nhân của Chúa Kitô, biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa trong thế giới', và họ cần can đảm làm chứng tá và kiên nhẫn đối thoại, phục vụ phẩm giá con người, sự hòa hợp của thiên nhiên và cuộc sống an bình của các dân tộc.. Vì thế, điều hết sức quan trọng là các tu sĩ phải gần gũi với các học sinh và gia đình họ, đặc biệt là qua việc giảng dạy giáo lý trong lớp cho các học sinh Công Giáo và những học sinh khác muốn học, và qua sự huấn luyện luân lý, chăm sóc các nhu cầu tinh thần của mọi người trong cộng đoàn học đường. Tôi khuyến khích các dòng tu hoạt động trong lãnh vực giáo dục, tin tưởng rằng hệ thống học phí sẽ thích đáng và minh bạch, và làm sao để các trường Công Giáo ngày càng có thể đón nhận các học sinh nghèo là những người nhiều khi rất mong muốn được trung thành gắn bó theo Chúa Kitô”.

ĐTC không quên nhắn nhủ các linh mục Thái Lan đừng phó mặc công việc dạy giáo lý cho các giáo lý viên mà thôi, vì chính sứ vụ của các linh mục là rao giảng Lời Chúa cho mọi người và hoạt động trong công tác giảng dạy... Khi các giáo lý viên được huấn luyện kỹ lưỡng cộng tác với các cha sở thì những ngành của cây nho sẽ mang lại nhiều hoa trái (cf Jn 15,5).

Thái Lan rộng hơn 513 ngàn cây số vuông, tức là rộng hơn Việt Nam 184 ngàn cây số vuông, nhưng dân số ít hơn, lối 66 triệu người, trong đó 95% là Phật tử, 4% theo Hồi giáo và tín hữu Công Giáo chỉ được hơn 0,5% dân số. Tuy là thiểu số, nhưng Công Giáo tại Thái có hơn 300 trường học, tạo một ảnh hưởng rất quan trọng đối với các học sinh sinh viên. (SD 16-5-2008)
 
Truyền Thụ Đức Tin trong Hội Thánh Tại Gia Đình
ĐHY Alfonso López-Trujillo
11:02 17/05/2008
Truyền Thụ Đức Tin trong Hội Thánh Tại Gia Đìnhtheo Familiaris Consortio

Bài Thuyết Trình của Đức Cố Hồng Y Alfonso López-Trujillo
Nguyên Chủ Tịch, Ủy Ban Giáo Hoàng về Gia Đình trong Đại Hội Tông Đồ Tận Hiến Gia Đình, Ngày18 tháng 7, năm 1998


Lời người dịch - Một tin buồn cho toàn thể Hội Thánh vào cuối chuyến Tông Du Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI là sự ra đi bất ngờ của Đức Hồng Y Alfongso López-Trujillo, Chủ Tịch Ủy Ban Giáo Hoàng về Gia Đình. Sau Đức Thánh Cha, Đức Hồng Y Trujillo là người có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong Hội Thánh và trên thế giới về việc bảo vệ gia đình và những giá trị luân lý, đặc biệt là chống lại Thần Học Giải Phóng cùng phong trào tự do tính dục. Ngài là vị anh hùng chống nạn phá thai và nạn nghiên cứu phôi thai. Trong Lễ An Táng của Ngài vào ngày 24 tháng 4 vừa qua, Đức Thánh Cha đã ca ngợi Ngài về “lòng can đảm trong việc bảo vệ những quyền không thể nhượng bộ được của sự sống con người.” Chúng tôi sẽ cố gắng nghiên cứu và lần lượt phiên dịch những bài giảng, những bài thuyết trình, cũng như những tác phẩm của Đức Cố Hống Y về gia đình để phổ biến cho các gia đình Công Giáo Việt Nam. – Phaolô Phạm Xuân Khôi.

Anh Chị Em thân mến,

Trước hết tôi xin phép cám ơn ông bà Jerry và Gwen Coniker vì đã mời tôi thuyết trình với anh chị em hôm nay. Tôi cũng cám ơn tất cả những ai liên hệ với Hội Tông Đồ Tận Hiến Gia Đình vì những gì quý vị đang làm để cho thế gian thấy vẻ đẹp của đời sống gia đình cùng khuyến khích gia đình hiểu rõ giá trị và thi hành ơn gọi cùng sứ vụ của họ trong Hội Thánh và xã hội. Cố gắng của quý vị không những chỉ gồm có một chương trình này mà còn nhiều chương trình khác nhằm mục đích đáp ứng các nhu cầu khác nhau của gia đình, với sự đặc biệt đề cao việc tôn thờ Bí Tích Thánh Thể, tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria, dạy Giáo Lý trong gia đình, và nhu cầu cấp bách đẩy lui một thảm họa vĩ đại là nạn phá thai.

Tôi sẽ đặt trọng tâm của những suy tư của tôi trong bài này về vai trò quan trọng của gia đình trong việc truyền thụ Đức Tin, một vai trò được nhấn mạnh trong Tông Huấn Familiaris Consortio về Vai Trò của Gia Đình Kitô Giáo trong Thế Giới Hiện Đại của Đức Thánh Cha [Gioan Phaolô II].

Truyền giáo là gì? Truyền giáo là khả năng nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà rao giảng Tin Mừng, Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa, Tin Mừng về việc Đức Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết. Việc rao giảng này, khi được tất cả mọi người thực hiện, sẽ làm cho đời sống thế gian có một ý nghĩa mới. Truyền giáo là việc truyền thông tình yêu.

Gia Đình: Được Mời Gọi Để Truyền Thụ Đức Tin

Một chân lý căn bản để chúng ta bắt đầu khi chúng ta đặt trọng tâm vào sứ vụ truyền thụ Đức Tin là tự bản chất Hội Thánh là truyền giáo. Cả bốn Tin Mừng ghi lại việc Chúa truyền cho Hội Thánh Sứ Vụ Cao Cả [là Loan Báo Tin Mừng]. Các con hãy đi toàn thế giới mà rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo… Có Đức Tin, lập tức và đồng thời, cũng là có ơn gọi truyền bá Đức Tin. Mọi phần tử của Hội Thánh đều có bình diện này của ơn gọi của mình. Không có thể có một phần tử nào được coi là phần tử thụ động của Nhiệm Thể Đức Kitô, dù phần tử ấy không thể đi đây đó hoặc tham gia các hoạt động thể lý, hay giao tiếp với người khác được. Đôi khi ơn gọi truyền giáo được chu toàn bằng cách làm nhân chứng một cách âm thầm qua việc kiên nhẫn chịu đau khổ với một lòng yêu mến và tin tưởng vào Thập Giá Đức Kitô.

Tất cả mọi người, dù trẻ hay già, dù khoẻ mạnh hay đau ốm, dù có học hay thất học, dù có nhiều hay ít tài năng, đều được mời gọi để truyền lại Đức Tin. Hơn nữa, ơn gọi này được Chính Chúa ban cho chúng ta trong Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức.

Cho nên gia đình, như tế bào chính của xã hội và của Hội Thánh, được mời gọi làm một đơn vị và như những phần tử cá nhân để truyền lại Đức Tin.

Hiệu quả do công việc này mang lại tùy thuộc vào nhiều yếu tố, không ít tùy thuộc vào cường độ của sự hợp nhất trong Đức Tin của cha mẹ trong gia đình, cũng như cường độ của tình yêu giữ hai vợ chồng, là điều thiết yếu cho sự hợp nhất của chính gia đình.

Việc dạy Giáo Lý trong gia đình được xảy ra theo nhiều chiều hướng, không chỉ từ cha mẹ đến con cái. Trước hết hai vợ chồng giúp nhau thăng tiến Đức Tin, và điều này phải được khởi sự ngay từ những ngày họ bắt đầu chung sống, cũng như trong giai đoạn dự bị hôn nhân. Chắc chắn rằng không phải là bất thường khi hai người nam nữ quyết định đào sâu sự liên hệ với nhau và bắt đầu sửa soạn hôn nhân nhận ra họ ở hai mức độ khác nhau trong liên quan với Hội Thánh. Ở giai đoạn quan trọng này của đời họ, ý muốn chia sẻ với nhau nhiều hơn có thể trở thành dịp cho người ít quen biết với Đức Tin bắt đầu học nhiều về Đức Tin.

Đời Sống Cầu Nguyện của Vợ Chồng và của Gia Đình

Ngày nay chúng ta tìm thấy một vấn đề trầm trọng là không có sự đối thoại trong gia đình. Nhưng thường thì vấn đề này phát xuất từ việc thiếu khả năng cần thiết để đối thoại với Thiên Chúa.

Một trong những bình diện quan trọng của việc tự hiến sâu xa của đôi bạn hứa hôn này là họ bỏ giờ ra cùng nhau cầu nguyện. Điều này đem lại cho họ một số lợi ích cá nhân như một đôi bạn. Cầu nguyện đào sâu sự tự hy sinh của họ. Nếu cuối cùng họ tìm cách chia sẻ trọn cuộc đời với nhau, thì điều này cũng gồm cả việc chia sẻ Đức Tin và liên hệ với Thiên Chúa. Cầu nguyện chung với nhau cũng củng cố chính quyết tâm cầu nguyện của họ. Hơn nữa việc này còn là một lời tuyên bố chung rằng tình yêu của họ không đóng khung hai người lại với nhau, như là họ hoàn toàn lệ thuộc vào nhau để được hạnh phúc. Cầu nguyện chung với nhau giải thoát họ khỏi gánh nặng luôn mong muốn trở thành “sự sung mãn tuyệt đối” cho nhau. Ngược lại, đó là một lời công bố chung rằng cả hai đều lệ thuộc vào Thiên Chúa, và rằng họ chỉ tìm thấy hạnh phúc và bình an hoàn toàn trong Ngài. Đời sống đối thoại và cầu nguyện có thể mở lòng mọi người trong gia đình ra, nuôi dưỡng thói quen hiền hoà với nhau và hiểu biết nhau.

Sách Tin Mừng soi sáng trên chân lý này trong đoạn Thánh Kinh nói về việc người ta hỏi Chúa là giới răn nào trọng nhất. “Các con phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa các con với hết tâm hồn, hết linh hồn và hết trí khôn. Đây là giới răn trọng nhất và thứ nhất. Giới răn thứ hai thế này: Các con phải yêu thương những người lân cận như chính mình” (Mt 22:37-39). Nói cách khác, nhiệm vụ thứ nhất của đôi bạn hứa hôn và hôn nhân là yêu mến Thiên Chúa. Chỉ có khi đó tình yêu đối với nhau mới có nền tảng vững chắc. Chỉ khi đó cả hai mới tìm thấy sức mạnh để yêu thương nhau bằng cường độ mà hôn nhân đòi hỏi, đồng thời tránh được cạm bẫy biến nhau thành thần tượng. Một bài hát đạo mà một cặp vợ chồng dành cho nhau nói lên chân lý này cách cô đọng bằng tên bài hát là “Bài Tình Ca cho Người Số Hai”. Chỉ có Thiên Chúa là Số Một. Nguồn mạch của Tình Yêu thật là Thiên Chúa, và Ngài cũng là nguồn mạch của mọi hạnh phúc.

Đời sống cầu nguyện của một đôi bạn sẽ dần dần tràn sang đời sống cầu nguyện của gia đình. Cầu nguyện trong gia đình là một yếu tố chính của việc dạy Giáo Lý ở gia đình. Trong Familiaris Consortio, Đức Thánh Cha đã dành một phần khá nhiều để suy nghĩ về việc cầu nguyện trong gia đình. Ngài viết: “Cầu nguyện trong gia đình có những đặc tính riêng của nó. Đó là kinh nguyện được dâng lên chung: vợ chồng cùng với nhau, cha mẹ cùng với con cái. Sự hiệp thông trong việc cầu nguyện vừa là hiệu quả vừa là đòi hỏi của sự hiệp thông mà các bí tích Rửa Tội và Hôn Phối đã đem lại. Các gia đình Kitô hữu có thể áp dụng được cho mình một cách đặc biệt những lời hứa hiện diện của Đức Giêsu: ‘Quả thật, Ta bảo các con: nếu dưới đất, hai người trong các con đồng thanh xin về bất cứ việc gì, thì Cha Ta, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho. Vì đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ’ (Mt 18:19-20)” (FC 59).

Chúng ta hãy đặc biệt lưu ý đến một sự thật là đoạn này nói về “cả cha mẹ lẫn con cái.” Nhiệm vụ giáo dục con cái là nhiệm vụ chính của cha mẹ, và họ không được khoán trắng nhiệm vụ này cho người khác. Đồng thời cũng không được bán cái cho một trong hai cha mẹ, mà là nhiệm vụ chung của cả hai người. Vậy nếu khi cả hai cha mẹ ở nhà mà chỉ có một người cầu nguyện với con cái, thì việc này ảnh hưởng đến các em thế nào? Các em sẽ học được gì khi chỉ có một người cha hay mẹ đem các em đến nhà thờ còn người kia dù có thể được cũng không đi?

Cha Mẹ, là Những Nhà Giáo Dục Chính của Con Cái

Thường thì những điều căn bản nhất của Đức Tin là món quà cha mẹ tặng cho con cái. Chúng ta học từ cha mẹ cách gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! Vậy chúng ta hãy đào sâu hơn về sự thật là cha mẹ là những nhà giáo dục chính của con cái. Sự thật và quyền lợi này từ đâu mà đến? Giáo dục không phải chỉ là truyền thông tin tức, mà là đào luyện tâm hồn và lương tâm bằng những giá trị luân lý và Đức Tin.

Theo một nghĩa nào đó, giáo dục là một sự đi sâu vào chính đời sống, một sự hiểu biết sâu xa hơn và một khả năng để tác động hỗ tương với việc tạo dựng. Cha mẹ có nhiệm vụ chính trong việc dẫn con cái đi sâu vào cuộc đời vì họ là những người mang lại cho các em sự sống. Familiaris Consortio diễn tả nhiệm vụ này như sau: “Nhiệm vụ giáo dục được phát sinh từ ơn gọi tiên khởi của đôi hôn nhân là tham dự vào việc tạo dựng của Thiên Chúa: qua việc sinh sản trong tình yêu và để thương yêu một con người mới, là người có trong mình ơn gọi lớn lên và phát triển, vì chính sự thật này mà cha mẹ lãnh nhận công tác giúp con người này cách hiệu quả để sống một đời sống con người hoàn hảo” (số 36). Vai trò căn bản này của cha mẹ còn được được diễn tả trong tài liệu bằng những từ “cần thiết”, “nguyên thủy và tiên quyết”, và “không thể thay thế được và không thể chuyển nhượng được.” Nhiệm vụ này không thể được trao phó hoàn toàn cho người khác hay bị người khác cướp đoạt.

Một trong những nền tảng cho sự thật này là mối liên hệ yêu thương đặc biệt giữa cha mẹ và con cái mình. Việc giáo dục con cái của cha mẹ được phát sinh từ tình yêu của cha mẹ, và trong sự hiểu biết của cha mẹ về những nhu cầu, đặc tính, và các cách học đặc biệt của con cái mình. Đây là điều mà ngay cả những nhà giáo lành nghề nhất cũng không thể thay thế được. Chỉ có gia đình mới có thể cung cấp cho con cái một nền giáo dục chính hiệu! Đó chính là sứ vụ căn bản [của phụ huynh].

Điều này có nghĩa là các nhà giáo dục cũng có nhiệm vụ quan trọng là nhìn nhận quyền của cha mẹ. Familiaris Consortio tiếp tục rằng, “… Những người trong xã hội có nhiệm vụ điều khiển học đường không bao giờ được quên rằng Chính Thiên Chúa đã chỉ định cha mẹ làm những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu cho con cái họ và không ai được phép tước quyền của họ” (số 40).

Tuy nhiên, trong cùng câu này, Ngài cũng nhắc nhở cha mẹ rằng họ “có nhiệm vụ quan trọng là hoàn toàn cố gắng có một liên hệ thân tình và tích cực với các thầy cô và với nhà trường” (số 40). Nói cách khác, gia đình, trong khi thi hành quyền bất khả xâm phạm của mình, không được trở thành một ốc đảo cô lập và độc lập. “Cũng không được quên rằng việc cha mẹ Kitô giáo phục vụ vào Tin Mừng chính là việc phục vụ Hội Thánh. Việc phục vụ này có một chỗ đứng trong phạm vi toàn thể Hội Thánh như là một cộng đồng truyền giáo và được truyền giáo.” Cho nên, sứ vụ của gia đình “vẫn phải là một sự hiệp thông mật thiết và hợp tách có trách nhiệm với tất cả mọi hoạt động truyền giáo và Giáo Lý đang có và đang hoạt động trong cộng đồng Hội Thánh trên cấp giáo phận hay giáo xứ” (số 53).

Dạy Giáo Lý và Cầu Nguyện Nuôi Dưỡng Nhân Đức

Suy tư của chúng ta về việc dạy Giáo Lý và cầu nguyện trong gia đình phải nhấn mạnh một điểm căn bản khác: Dạy Giáo Lý không phải chỉ dạy về quan niệm. Nó liên quan đến việc đào sâu sự đáp trả bằng đời sống của một người với Thiên Chúa là Đấng tự tỏ Mình ra. Cầu nguyện không đơn thuần là một cuộc đối thoại tỏ ra sự kính phục đối với Chúa, Đức Mẹ hay các Thánh. Nhưng cầu nguyện thúc đẩy chúng ta phải sống như các Ngài đã sống. Cầu nguyện tháp nhập chúng ta vào một động lực to lớn hơn chúng ta và biến đổi chúng ta. Cách tốt nhất để chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và các Thánh là học theo các nhân đức của các Ngài.

Familiaris Consortio vạch ra sự liên hệ mật thiết của cầu nguyện với gia đình: “Thay vì là một hình thức chạy trốn những trách nhiệm thường ngày, cầu nguyện tạo thành một sự thúc đẩy mãnh liệt nhất cho gia đình Kitô giáo đảm nhận và chu toàn tất cả các nhiệm vụ của mình như là tế bào đầu tiên và căn bản của xã hội. Như thế, việc tham gia thật sự của gia đình Kitô giáo trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh sẽ trực tiếp cân xứng với sự trung thành và mức độ sâu đậm trong việc cầu nguyện mà nhờ đó gia đình được kết hợp với cây nho sai trái là Đức Kitô, Đức Chúa” (số 62).

Điều Gì Làm Cho Gia Đình Phát Triển

Cuối cùng, người ta phải kết luận rằng việc gì xảy ra khi một gia đình đào sâu sự hiểu biết và thực thi Đức Tin? Động lực nào đang hoạt động giữa các phần tử [của gia đình] để diễn tả điều đang xảy ra? “Là một cộng đồng tình yêu, gia đình tìm thấy trong tình yêu tự hiến định luật hướng dẫn nó và làm cho nó phát triển” (số 37). Gia đình là một cộng đồng của sự sống và tình yêu của toàn thể đời sống! Nền tảng của gia đình là việc tự hiến hoàn toàn cho nhau.

Trên hết, gia đình là một cộng đoàn gồm những con người. Họ lớn lên trong cộng đoàn bằng việc hy sinh chính mình. Cuối cùng, gia đình được đặt nền tảng trên lời thệ hôn hy sinh cho nhau “khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh tật cũng như lúc khỏe mạnh, tất cả mọi ngày trong đời” chúng ta. Như thế, đây chính là chương trình hành động cho mỗi ngày không những của hai vợ chồng mà của cả gia đình. Yêu là một từ bị lạm dụng nhiều nhất trong các từ vựng của chúng ta. Thánh Gioan bảo chúng ta rằng ý nghĩa thật của tình yêu được tỏ lộ trong chân lý là Thiên Chúa “đã sai Con Ngài đến như một của lễ đền tội chúng ta” (1 Ga 4:10). Vậy đây là tình yêu chân thật: Tôi hy sinh chính mình vì điều tốt cho người khác. Vợ chồng hy sinh cho nhau. Cha mẹ hy sinh cho nhau và cho con cái. Tất cả mọi phần tử trong gia đình được mời gọi hy sinh chính mình cho mọi phần tử khác trong gia đình. Đây là con đường dẫn đến hạnh phúc, tăng trưởng và sung mãn.

Những sự dữ tàn phá gia đình, như là ly dị, lạm dụng, hay là việc chỉ chú tâm đến mình mà nền văn hóa vật chất đang cổ võ, được đặt nền tảng trên những điều trái ngược với hy sinh chính mình. Chúng không hy sinh mình vì ích lợi cho người khác, nhưng là hy sinh người khác vì ích lợi của mình, một động lực đạt cao điểm trong việc phá thai.

Nhưng định luật hy sinh hằng ngày hướng dẫn gia đình và làm cho nó phát triển. Đây là định luật mà tất cả việc dạy Giáo Lý và cầu nguyện được dùng để giúp chúng ta đi theo. Đây là Lề Luật của Giao Ước Mới, được thiết lập khi Chúa đổ Máu Mình ra trong lúc thực thi chính định luật này, hy sinh chính Mình vì lợi ích của người khác. Trong Cuộc Khổ Nạn của Người, chúng ta tìm thấy phương thế giúp gia đình thăng tiến. Trong Cuộc Khổ Nạn của Người, chúng ta tìm thấy hy vọng thắng vượt sự phân hóa trong lòng và giữa các vợ chồng, con cái, cùng các cộng đoàn. Trong Cuộc Khổ Nạn của Người, chúng ta tìm thấy ý nghĩa của tình yêu. Vậy hôm naỳ chúng ta hãy kết hợp trong cầu nguyện để không một gia đình nào không nhận được ơn này, và cho những gia đình đang vất vả để tái khám phá ra ơn này, hay những cá nhân không có một gia đình, sẽ được củng cố bởi Cuộc Khổ Nạn của Chúa chúng ta và sự trợ giúp đắc lực của Dân Thiên Chúa.

Truyền giáo chính là hơi thở của Hội Thánh. Nếu Gia đình không thể chu toàn sứ vụ này, thì như thế giới mất hơi thở và không đủ dưỡng khí. Thế giới rất cần “dưỡng khí thiêng liêng” và thưa các gia đình thân yêu, các anh chị em có công tác rất quan trọng và vinh dự lớn lao này là: rao giảng và truyền thông tình yêu của Thiên Chúa.

Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho quý anh chị em.

Đức Cố Hống Y Alfonso López-Trujillo (1935-2008)
Nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Giáo Hoàng về Gia Đình.
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
 
Toàn văn lời nguyện cầu cho Giáo Hội Trung Hoa
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
12:27 17/05/2008
VATICAN - Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã kêu gọi Giáo Hội hoàn vũ cầu xin cho các người Công Giáo tại Trung Hoa không bao giờ sống trong sư sợ sệt để truyền bá sứ điệp Tin Mừng và sống trung thành với Toà Thánh.

Trong một kinh đặc biệt do Tòa Thánh Vatican phổ biến ngày thứ Sáu 16/5, Đức Giáo Hoàng xin,, họ “vẫn tiếp tục tin, hy vọng, yêu thương” cho dẫu có những khó khăn mà người Công Giáo phải đối đầu tại Trung Hoa.

Đức Bà Xa Sơn
Vào Tháng Sáu/2007, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã thiết lập ngày 24/5, lễ Đức Bà Phù Hộ các giáo hữu, như là ngày thế giới cầu nguyện cho giáo hội tại Trung Hoa. Đức Maria được cung kính dưới tước hiệu này trong đền Đức Maria tại Xa Sơn, tại Thượng Hải- Trung Hoa.

Được gọi là Kinh kính Đức Bà Xa Sơn, kinh này được phổ biến trong 8 thứ tiếng khác nhau, kể cả tiếng Trung Hoa truyền thống và đơn giản hóa.

Sau đây là bản kinh bằng tiếng Anh, được dịch sang tiếng Việt

“Lạy Đức Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể và Mẹ chúng con

được sùng kính trong đền Xa Sơn dưới tước hiện “Mẹ Phù Hộ các giáo hữu,”

toàn thể giáo hội tại Trung Hoa nhìn lên Mẹ với lòng yêu mến thiết tha.

Hôm nay chúng con đến trước Mẹ cầu xin ơn phù trợ của Mẹ.

Xin Mẹ nhìn đến dân Chúa và, với một sự chăm sóc từ mẫu, xin hướng dẫn họ

theo con đường chân lý và tình yêu, ngõ hầu họ có thể luôn luôn là

một chất men của sự chung sống hoà hợp giữa tất cả các công dân.

Khi Mẹ vâng lời nói “Xin Vâng” tại nhà Nadareth,

Mẹ để cho Con đời đời của Thiên Chúa lấy thịt mình trong lòng trinh khiết của Mẹ

và như vậy là bắt đầu trong lịch sử công trình cứu chuộc chúng con.

Mẹ đã vui lòng và quảng đại cộng tác trong công trình này,

vì để cho lưỡi gươm đau đâm thâu linh hồn của Mẹ,

cho tới giờ cuối cùng thánh giá, khi Mẹ canh thức trên núi Calvariô,

đứng bên Con Mẹ, Đấng đã chết để chúng con được sống.

Từ lúc đó, Mẹ trở nên, một cách mới,

là Mẹ của mọi người nhận lãnh con Mẹ là Chúa Giêsu trong đức tin

và chọn theo những bước chân của Người bằng cách vác thánh giá của Người.

Lạy Mẹ hy vọng, trong đêm tối Thứ bảy Tuần Thánh Mẹ đã hành trình

với lòng tin cậy bền bỉ cho tới bình minh ngày Phục Sinh.

Xin cho con cái Mẹ có thể nhận ra trong mọi lúc,

cả những lúc đen tối nhất, những dấu chỉ sự hiện diện thân yêu của Chúa.

Tượng Đức Mẹ Xa Sơn trên tháp nhà thờ tại Thượng Hải
Lạy Đức Mẹ Xa Sơn, xin hãy nâng đở mọi người tại Trung Hoa,

là những kẻ, giữa những thử thách hằng ngày của họ, tiếp tục tin, hy vọng, yêu thương.

Xin cho họ không bao giờ sợ sệt nói về Chúa Giêsu cho thế giới,

Và về thế giới cho chúa Giêsu.

Trong tượng ảnh nhìn xuống đền thánh, Mẹ nâng cao con Mẹ

Tỏ bày Người cho thế giới với những cánh tay rộng mở trong cử chi yêu thương.

Xin Mẹ giúp những người Công Giáo luôn luôn làm những chứng nhân đáng tin cho tình yêu này,

mãi bám chặt vào tảng đá Phêrô trên đó giáo hội được xây dựng.

Lạy Mẹ nước Trung hoa và toàn thể châu Á, xin cầu cho chúng con, bây giờ và mãi mãi. Amen!”
 
Đức Giáo Hoàng Nói Các Gia Đình Gặp Khủng Hoảng Cần Được Giúp Đỡ
Bùi Hữu Thư
12:44 17/05/2008

Đức Giáo Hoàng Nói Các Gia Đình Gặp Khủng Hoảng Cần Được Giúp Đỡ



Ngài yêu cầu có sự cam kết của chính quyền và các hiệp hội

VATICAN 16 tháng 5, 2008
– Đức Giáo Hoàng Benedict XVI nói, các gia đình ngày nay đang gặp khủng hoảng, và cần có một sự cam kết của nhiều lãnh vực khác nhau trong xã hội để giúp họ.

Đức Giáo Hoàng nói như vậy hôm nay khi tiếp kiến các đại biểu của Diễn Đàn của Liên Hội Gia Đình và Liên Hội Các Gia Đình Âu Châu, đang có mặt tại Rôma để tham dự hội nghị về “Liên Minh Các Hội Gia Đình Công Giáo Trong Vai Trò Lãnh Đạo."

Đức Giáo Hoàng nói với các đại biểu của các hội bằng tiếng Ý, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Bồ Đào Nha, ngài nhắc lại mục tiêu của Hội Nghị là “so sánh ý thức của các vị lãnh tụ chính trị và dư luận quần chúng về vai trò chính yếu và không thể thay thế của gia đình đang nắm giữ trong xã hội chúng ta.”

Ngài kêu gọi sự chú ý đến ngày kỷ niệm năm thứ 40 của Tông Huấn “Đời Sống Con Người” của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, và kỷ niệm năm thứ 25 ngày phổ biến “Hiến Chương Về Quyền Hạn của Gia Đình” được Tòa Thánh trình bầy năm 1983.

Người Nam và Người Nữ

Đức Giáo Hoàng nói, hai tài liệu này hợp tác với nhau, “vì tài liệu thứ nhất nhấn mạnh đến phẩm giá của tình yêu giữa những cặp hôn nhân, không bị bóp méo bởi tính ích kỷ và cởi mở cho sự sống, và đang đi ngược lại trào lưu hiện hành; tài liệu thứ hai trình bầy các quyền hạn bất khả xâm phạm của gia đình, dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, và là cái nôi tự nhiên của đời sống con người.”

Đức Giáo Hoàng Benedict XVI nói “Hiến Chương Về Quyền Hạn của Gia Đình được nhắm vào các giới lãnh tụ chính trị”, và đưa ra cho những ai có trách nhiệm lo lắng cho sự an vui của công chúng một mẫu mực và một căn bản để dựa vào đó mà ban hành những luật pháp thích nghi cho các gia đình. Đồng thời, hiến chương cũng được gửi đến các gia đình nhằm khuyến khích họ kết hiệp để bảo vệ và tuyên xưng quyền hạn của họ.”

Đức Giáo Hoàng đề cập đến Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi ngài nói, “Tương lai của nhân loại phải đi qua con đường của gia đình.” Đức Giáo Hoàng Benedict XVI nói vị tiền nhiệm của ngài, người được tuyên xưng là “Đức Giáo Hoàng cuả Gia Đình”, đã nhấn mạnh về “giá trị không thể thay thế của tổ chức gia đình, theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và là Chúa Cha.”

Đức Giáo Hoàng người Đức tiếp, “mạc khải của Thánh Kinh trên hết là một sự trình bầy một câu chuyện tình, một câu chuyện của giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại. Chính vì thế mà câu chuyện tình và sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ trong giao ước hôn nhân được Thiên Chúa chấp nhận như một biểu tượng của lịch sử cứu độ.”
 
Đức Thánh Cha viếng thăm mục vụ tại Savona
LM Trần Đức Anh, OP
13:54 17/05/2008
SAVONA. Chiều 17-5-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã đến viếng thăm giáo phận Savona và chúa nhật 18-5-2008, ngài thăm tổng giáo phận Genova ở mạn tây bắc Italia.

ĐTC đã đáp máy bay từ phi trường Ciampino ở Roma lúc 3 giờ rưỡi chiều và đến phi trường Genova sau gần 1 giờ bay. Từ đây ngài dùng trực thăng để di chuyển đến Đền thánh Đức Mẹ từ bi của giáo phận Savona lúc gần 5 giờ chiều. Giáo phận này có 146 ngàn tín hữu Công Giáo.

Trước Đền thánh có nhiều bệnh nhân và anh chị em tín hữu, đặc biệt là các trẻ em, chào đón ĐTC mặc dù trời mưa. Tại nhà nguyện ở tầng hầm Đền Thánh, trước ảnh Đức Mẹ đã được Đức Giáo Hoàng Piô 7 đội triều thiên năm 1815, ĐTC đã đọc kinh cầu nguyện do dân thành và giáo phận địa phương. Hiện diện trước ảnh Đức Mẹ còn có Đức GM sở tại và các nữ tu dòng kín Camêlô được phép đặc biệt ra khỏi đan viện để cầu nguyện với ĐTC trong dịp này.

Sau đó vào lúc 6 giờ chiều, ngài đã chủ sự Thánh Lễ tại Quảng trường Nhân dân, trước sự hiện diện của 50 ngàn tín hữu, mặc dù thời tiết rất xấu.

Trong bài giảng, ĐTC nhắc đến sự tích Đức Mẹ hiện ra tại Savona ngày 18-3-1536 với một nông dân và nói về lòng từ bi của Thiên Chúa. Lòng từ bi cũng đồng nghĩa với tình thương và ân phúc. Và đây chính là yếu tính của Kitô giáo vì là chính yếu tính của Thiên Chúa.

Sau khi quảng diễn về tình thương của Chúa Ba Ngôi đối với loài người, ĐTC nhắc đến sự tích Đức Piô 7 bị giam cầm tại Savona và nhân dân thành này luôn nâng đỡ Người, bất chấp những đe dọa và nguy hiểm. ĐTC nói: ”Hai thế kỷ sau các biến cố ấy, nay tôi đến đây để bày tỏ lòng biết ơn của Tòa Thánh và toàn thể Giáo Hội đối với niềm tin yêu và can đảm qua đó dân thành Savana của anh chị em đã nâng đỡ ĐGH khi Người bị quản thúc tại đây theo lệnh của Napoleon Bonaparte.”

Từ tấm gương đó, ĐTC khích lệ các tín hữu ”can đảm đương đầu với những thách đố của thế giới ngày nay như chủ thuyết duy vật, duy tương đối, duy đời, và không bao giờ chiều theo những thỏa hiệp hoặc nhượng bộ, trái lại sẵn sàng trả giá bằng bản thân mình, để trung thành với Chúa và với Giáo Hội. Tấm gương cương quyết thanh thản của Đức Piô 7 mời gọi chúng ta bảo tồn lòng tín thác nơi Thiên Chúa giữa những thử thách, với ý thức rằng tuy Chúa để cho Giáo Hội phải trải qua những thời điểm khó khăn, nhưng không bao giờ Chúa bỏ rơi Giáo Hội”.

Sau thánh lễ, vào lúc gần 8 giờ, ĐTC đến viếng căn hộ nơi Đức Piô 7 đã bị hoàng đế Pháp Napoleon cầm giữ trong 3 năm. ĐGH Piô 7, tục danh là Barnaba Niccolò Maria Luigi Chiaramonte, sinh tại Cesena năm 1742 và qua đời tại Roma năm 1823, thọ 81 tuổi. Ngài thuộc dòng Biển Đức và lên ngôi Giáo Hoàng năm 1800 khi được 58 tuổi. Ngài bị Napoléon I ra bệnh bắt giam khi đã 67 tuổi, và khi tới Savona, ngài đã xin được đến kính viếng Đức Mẹ Từ Bi mà ngài có lòng kính mến đặc biệt.

Rời Savona, ĐTC đã đến thành phố Genova để tiếp tục cuộc viếng thăm mục vụ vào ngày chúa nhật 18-5-2008, với cao điểm là cuộc gặp gỡ giới trẻ vào ban trưa và thánh lễ cho các tín hữu vào ban chiều.

Nhân cuộc viếng thăm của ĐTC, Giáo phận Savona, tổ chức cuộc lạc quyên để cứu trợ các nạn nhân cuồng phong Nargis tại Myanmar, khiến cho 78 ngàn người thiệt mạng và 2 triệu người phải tản cư. Số tiền quyên góp đã được trao cho ĐTC trong thánh lễ chiều 17-5-2008. Một số giáo xứ sẽ tiếp tục lạc quyên và chuyển số tiền lạc quyên được về tòa Giám Mục trong những ngày sau đó.

Cũng nên nói thêm rằng nhân dịp ĐTC đến viếng thăm Savona và Genova, cũng có những nhóm tả phái cực đoan, vô thần, cộng sản, nhóm đồng tính luyến ái và duy đời, chứng 500 người, biểu tình chống Giáo Hội chiều ngày 17-5-2008 tại thành phố cảng Genova. (SD 17-5-2008)
 
Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục đón nhận các phong trào và cộng đoàn mới của Giáo Hội
LM Trần Đức Anh, OP
13:57 17/05/2008
VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 tái kêu gọi các GM đón nhận trong tình yêu thương các phong trào và cộng đoàn mới của Giáo Hội như hồng ân của Chúa Thánh Linh ban cho Giáo Hội.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 17-5-2008 dành cho lối 100 GM đến từ 50 quốc gia tham dự khóa hội luận do Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân tổ chức tại Rocca di Papa gần Roma, với chủ đề là câu ĐTC đã nói với các GM Đức hồi năm 2006: ”Tôi xin anh em hãy đi gặp gỡ các phong trào với tất cả lòng yêu thương” (18-11-2006). Hiện diện tại khóa hội còn có 50 vị lãnh đạo các phong trào và Cộng đoàn mới của Giáo Hội.

Trong bài huấn dụ, ĐTC đề cao các Phong trào và cộng đoàn mới nảy sinh trong Giáo Hội, nhất là sau thời Công đồng chung Vatican 2 như những hồng ân đặc biệt của Chúa Thánh Linh. Ngài nói: ”Đi gặp các phong trào và cộng đoàn mới với tất cả tình yêu thương thúc đẩy chúng ta nhận biết thực tại của họ, không chiều theo những ấn tượng hời hợt hoặc phán đoán hẹp hòi. Thái độ này giúp chúng ta hiểu rằng các phong trào và cộng đoàn mới của Giáo Hội không phải là một vấn đề hoặc một rủi ro gây ra thêm cho gánh nặng của chúng ta. Không phải vậy! Họ chính là một món quà của Chúa, một nguồn mạch quí giá để làm cho toàn thể cộng đoàn Kitô được phong phú thêm nhờ những đoàn sủng của họ”.

ĐTC ám chỉ tới sự kiện có một số giám mục chẳng những không nâng đỡ nhưng còn cấm cản các phong trào và cộng đoàn mới của Giáo Hội không cho họ được hiện diện và hoạt động trong các giáo phận thuộc quyền, mặc dù các phong trào và cộng đoàn này đã được Tòa Thánh công nhận.

ĐTC nói tiếp: ”Những khó khăn hoặc hiểu lầm về những vấn đề đặc thù không cho phép có thái độ khép kín. Chúng ta là những mục tử được yêu cầu gần gũi tháp tùng các phong trào và cộng đồng mới với tình quan tâm phụ tử, nồng nhiệt và khôn ngoan, để họ quảng đại dùng bao nhiêu hồng ân của họ để mưu ích chung, một cách có thứ tự và phong phú. Chúng ta đã học các nhận biết và quí chuộng các đặc biệt của họ như lòng nhiệt thành truyền giáo, hành trình huấn luyện Kitô hữu hiệu, chứng tá về lòng trung thành và vâng phục Giáo Hội, nhạy cảm đối với những nhu cầu của người nghèo, và dồi dào ơn gọi”.

ĐTC nhận xét rằng: ”Đặc tính chân thực của các đoàn sủng mới được bảo đảm qua sự sẵn sàng của các phong trào và cộng đoàn ấy tuân phục sự phân định của giáo quyền. Đã có nhiều phong trào và cộng đoàn mới được Tòa Thánh nhìn nhận, và vì thế chắc chắn họ phải được coi như một hồng ân của Thiên Chúa ban cho toàn thể Giáo Hội.”

Và ĐTC cảnh giác các GM rằng: ”Ai được kêu gọi thi hành công tác phân định và hướng dẫn thì đừng tự coi mình làm chủ các đoàn sủng (cf 1 Ts 5,19-21), cần chống lại chước cám dỗ muốn đồng nhất hóa những gì mà Chúa Thánh Linh muốn cho có nhiều hình thức khác nhau để góp phần xây dựng và mở rộng Thân Mình duy nhất của Chúa Kitô mà chính Chúa Thánh Linh làm cho vững chắc trong sự hiệp nhất” (SD 17-5-2008)
 
Giáo Hội khuyến khích giúp đỡ Trung Quốc sau trận động đất
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
19:14 17/05/2008
Đức Hồng Y Quân ghi nhận tầm quan trọng của chương trình dài hạn

MILAN, ITALY (Zenit,org).- Khi Giáo Hội tại Trung Quốc khuyến khích giúp đở những nạn nhân trận động đất ngày thứ Hai, giám mục Hồng Không nói chìa khóa cứu trợ thiên tai là một chương trình dài hạn.

Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân đang có mặt tại Italia, nơi ngài đã nói với báo chí về trận động đất 7.9 rung chuyển mạnh tỉnh phía tây nam Tứ Xuyên. Những sự chết được xác nhận đã lên hơn 12.000 nhưng còn hơn hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn.

Hồng Y Quân bày tỏ nỗi đau buồn của ngài trước “sự mất rất nhiều nhân mạng.” Và ngài nói thêm, “Tại Hồng Kông, chúng tôi sẽ làm điều chúng tôi luôn làm trong những tình huống này: vận động cung cấp ngay sự giúp đở cho dân chúng bị ảnh hưởng và trải rộng sự kêu cứu đến cộng đồng Công Giáo hầu quyên góp giúp đở khẩn cấp.”

“Sau đó, chúng tôi sẽ gởi sự giúp đở này tới Trung Quốc qua Caritas và chữ Thập Đỏ. Phải tiên kiến, đúng vậy, sự trợ giúp dài hạn cho việc tái kiến trúc. Điều quan trọng là, khi những loại tai ương này xảy đến, không quên chúng quá mau, bởi vì một thời gian dài là cần thiết trước những người sống trong những vùng này có thể trở lại tình trạng bình thường.”

Hồng Y Quân đã chủ sự hôm thứ Ba 13/5 một canh thức cầu nguyện cho Trung Quốc và cho Giáo Hội tại xứ này, trong nhà thờ Thánh Têphano tại Milan

Tờ báo Fides đã tường thuật 40 nhà thờ trong Giáo Phận Thành Đô bị hư hại hay phá hủy bởi trận động đất. Trong Giáo Phận Trùng Khánh, 10 nhà thờ khác bị hư hại nặng. Hơn ba nhà thờ bị phá hủy trong Giáo Phận Nan Chong. Chưa có tin tức từ những giáo phận gần tâm động đất, vì những đàng thông tin chưa được tu sửa.
 
Huấn dụ Thứ Tư hàng tuần: Chân lý cho mọi người
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
19:28 17/05/2008
Đức Thánh Cha xem xét Vai Trò của nhà thần học Biệt danh-Dionysius trong sự đối thoại hiện nay.

Vatican (Zenit,org ).-Khi người nào gặp ánh sáng chân lý, thì họ hiểu rằng đó là một ánh sáng cho mọi người, và như vậy sự đối thoại không chấp nhận vẻ bề ngoài, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nói như trên

Đức Giáo Hoàng đã khẳng định điều này trong buổi tiếp kiến chung Thứ Tư hàng tuần 14/5 tại Quãng Trường Thánh Phêrô, mà ngài dành để suy tư về một “gương mặt rất mầu nhiệm: một thần học gia từ thế kỷ thứ sáu, kẻ không được biết tên, và viết dưới biệt hiệu Dionysius the Areopagite.”

Đức Thánh Cha đã ghi nhận tên này qui chiếu về một nhân vật từ sách Công Vụ Tông Đồ, một trong những người được xác nhận qua bài giảng của Thánh Phaolô trong Hội các nhà Bác Học tại Athens.

Đức Thánh Cha đã khẳng định, lý do tác giả thế kỷ thứ 6 này đã chọn sử dụng tên đó có thể là sự ao ước của nhà thần học muốn sống khiêm tốn, cũng như có ý định theo những vết chân của kẻ trùng tên họ với mình, hầu cổ võ “một sự gặp gỡ giữa văn hoá và trí thông minh Hy Lạp với việc loan báo về Chúa Kitô.”

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã đặt những tác phẩm của Dionysius trong bối cảnh thế kỷ thứ sáu, với vụ xung đột theo sau Công Đồng Chalcedon. Những tác phẩm của ngài cũng để đối phó với một nhà tư tưởng Neoplatonic, Proclo, kẻ ủng hộ một sự trở về với thuyết đa thần giáo của tôn giáo Hy Lạp xưa.

Đức Thánh Cha đã ghi nhận người Bút Danh-Dionysius đã viết, “’Tôi không muốn gây nên thuật bút chiến; tôi chỉ nói về chân lý; tôi tìm kiếm chân lý.’ Và ánh sáng chân lý tự nó làm cho sự sai lầm phai nhòa và làm cho điều thiện sáng chói. Với nguyên lý này ngài thanh luyện tư tưởng Hy Lạp và liên kết nó với Tin Mừng.”

“Nguyên lý này, mà ngài khẳng định trong thơ thứ bảy của ngài, cũng là sự diễn tả của một tình thần thật sự đối thoại: Sự đối thoại không có ý tìm kiếm những sự chia rẽ, người ta phải tìm kiếm chân lý trong chính Chân Lý; sau đó, chân lý sáng chói và làm cho những sai lầm sụp đổ”.

Thuyết huyền nhiệm

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI khẳng định rằng thần học của tác giả thế kỷ thứ sáu là thần học “huyền nhiệm lớn thứ nhất.”

Những huấn giáo của ngài sử dụng “thần học tiêu cực,” nghĩa là ý niệm rằng “những quan niệm cao siêu nhất của Thiên Chúa không bao giờ đạt được sự cao cả thật của Người” và nói điều Thiên Chúa không là thì dễ hơn là nói điều Thiên Chúa thật sự là.”

Người Bút Danh –Dionysius nói với chúng ta rằng “cuối cùng, tình yêu thấy nhiều hơn là lý trí. Nơi nào có ánh sáng tình yêu, thì những bóng tối của lý trí phai nhoà. Tình yêu thấy được, tình yêu là một con mắt và sự kinh nghiệm cho chúng ta nhiều hơn là sự suy tư,” Đức Thánh Cha nói thêm.

Đức Giáo Hoàng rút ra một yếu tố khác từ những tác phẩm của nhà thần học thế kỷ thứ sáu.

Đức Thánh Cha nói ngài có một sự liên quan mới như là “người trung gian lớn trong sự đối thoại hiên nay giữa Kitô Giáo và những thần học huyền nhiệm châu Á, được đánh dấu bởi sự xác tín không thể nói Thiên Chúa là ai, chỉ những cách nói tiêu cực có thể được sử dụng để nói về Thiên Chúa; Thiên Chúa chỉ có thể được nói về với (chữ) ‘không’ và chỉ có thể với lấy Người bằng cách đi vào trong kinh nghiệm này của ‘sự không’ Và ở đây thấy có môt sự tương đương giữa tư tưởng của Areopagite và tư tưởng của các tôn giáo châu Á. Ngài có thể là người trung gian hiện nay như Người đã là trung gian giữa tinh thần Hy Lạp và Tin Mừng.”

Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha đã nói về sự đối thoại như một sự gì “không chấp nhận vẻ bên ngoài.”

Ngài đã giải thích: “Một cách chính xác khi người ta đi vào trong những chiều sâu của sự gặp gỡ với Chúa Kitô, một không gian rộng rải cho sự đối thoại cũng mở ra. Khi người ta gặp ánh sáng chân lý, người ta biết rằng đó là ánh sáng cho mọi người; thuật luận chiến biến mất và có thể hiểu nhau, hay là ít ra, nói với nhau, xích lại gần nhau.

“Con đường đối thoại hệ tại chính xác ở gần với Thiên Chúa trong Chúa Kitô, trong những chiều sâu của sự gặp gỡ với Người, trong sự kinh nghiệm của chân lý, mở chúng ta cho ánh sáng và giúp chúng ta đi ra gặ những kẻ khác—ánh sáng chân lý, ánh sáng tình yêu.”

“Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta ngày nay cũng đặt sự khôn ngoan của thời đại chúng ta phục vụ Tin Mừng,” Đức Giáo Hoàng kết thúc, “khám phá lại vẻ đẹp của đức tin, của sự gặp gở với Thiên Chúa trong Chúa Kitô.”
 
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói về Kinh Mân Côi
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
19:39 17/05/2008
Kinh này giúp đặt Chúa Kitô làm trung tâm”.VATICAN (Zenit,org).-Bản dịch bài huấn từ ngày 3/5 của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả, nơi Đức Thánh Cha đọc kinh Mân Côi với các tín hữu.

* * *

VIỆC ĐỌC KINH MÂN CÔI

HUẤN TỪ CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC XVI

VƯƠNG CUNG ĐỨC BÀ CẢ- 3/5/2008

Anh chị em thân mến,

Lúc kết thúc buổi đọc kinh Đức Maria, tôi muốn gởi lời chào chân tình của tôi tới tất cả mọi người trong anh chị em và cám ơn anh chị em vì sự tham gia của anh chị em. Cách riêng tôi chào Hồng Y Bernard Francis Law, Tổng linh mục Vương Cung Thánh Đường kỳ diệu này của Đức Bà Cả.

Tại Roma, đây là đền thờ tuyệt hảo Marian, nơi đây dân thành tôn kính ảnh Đức Maria Salus populi romani (Phần rỗi của Dân Roma) với lòng yêu mến thiết tha. Tôi vui mừng tiếp nhận lời mời gởi đến tôi xin hướng dẫn Kinh Thánh Mân Côi trong ngày Thứ Bảy đầu tháng 5, theo truyền thống tốt đẹp tôi đã có hồi còn bé. Thực vậy trong kinh nghiệm của thế hệ tôi, những buổi chiều tháng 5 nhắc lại những kỷ niệm dịu ngọt liên kết với những tập hợp buổi chiều để tôn kính Mẹ đáng Chúc Phúc. Thật vậy, làm sao có thể quên đọc kinh Mân Côi trong giáo xứ hay là đúng hơn trong những sân nhà ở và trong những đường đi trong xứ sở?

Hôm nay, cùng nhau chúng ta khẳng định rằng Kinh Thánh Mân Côi không phải là một thực hành kể như đã xưa củ, như những kinh của những thời gian khác được nhớ lại cách luyến tiếc. Ngược lại, kinh Mân Côi đang kinh nghiệm một Mùa Xuân mới. Không chút hồ nghi, đây là một trong những dấu hùng biện nhất của tình yêu mà thế hệ trẻ nuôi dưỡng đối với Chúa Giêsu và Mẹ Người, Đức Maria.

Trong thế giới hiện nay, rất phân tán, kinh này giúp đặt Chúa Kitô làm trung tâm, như Đức Trinh Nữ đã làm, Đấng suy niệm trong lòng tất cả những gì được nói về Con mẹ, và cũng những gì Người đã làm và đã nói. Khi đọc kinh Mân Côi, những thời điểm quan trọng và đầy ý nghĩa của lịch sử cứu độ được sống lại. Những bước khác nhau về sứ vụ của Chúa Kitô được phát hiện. Với Đức Maria tâm hồn hướng về mầu nhiệm Chúa Giêsu.

Chúa Kitô được đặt làm trung tâm đời sống chúng ta, thời gian chúng ta, thành phố chúng ta, qua sự chiêm ngắm và suy gẫm những mầu nhiệm thánh của Người là sự vui, sự sáng, sự buồn và sự mừng. Xin Đức Maria giúp chúng ta tiếp nhận trong chúng ta ân sủng phát xuất từ những mầu nhiệm này, ngõ hàu qua chúng ta, chúng ta có thể “tưới” xã hội, bắt đầu với những tương quan hằng ngày chúng ta, và thanh luyện những tương quan ấy sạch nhiều lực lượng tiêu cực, như vậy mở những tương quan ấy đón nhận sự mới mẻ của Thiên Chúa. Kinh Mân Côi, khi được đọc cách đích thực, không phải cách máy móc và nông cạn nhưng thâm sâu, mang lại, trên thực tế, hoà bình và sự hoà giải. Kinh Mân Côi chất chứa trong mình quyền năng chữa lành của Tên Chí Thánh của Chúa Giêsu,Tên được cầu khẩn với đức tin và tình yêu tại trung tăm của mổi kinh “Kính Mừng.”

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sống một giờ đẹp đến thế buổi chiều nay, và trong những chiều tiếp theo trong tháng Đức Maria, dầu chúng ta sẽ ở xa, mỗi người trong gia đình và cộng đồng của mình, mong sao chúng ta có thể, cũng vậy, cảm thấy gần gũi và kết hợp trong sự cầu nguyện. Cách riêng trong những ngày này chuẩn bị chúng ta mừng Lễ Trọng Hiện Xuống, chúng ta hãy kết hợp với Đức Maria, câu xin cho Giáo Hội một sự tuôn đổ mới của Chúa Thánh Thần.

Như trong những lúc đầu, Đức Maria Chí Thánh giúp các tín hữu mọi cộng đồng Kitô hữu làm thành một lòng một linh hồn. Tôi phó thác cho anh chị em những ý định khẩn cấp nhất thuộc thừa tác vụ của tôi, những nhu cầu của Giáo Hội, những vấn đề nghiêm trọng của nhân loại: hoà bình trong thế giói, sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu, sự đối thoại giữa các nên văn hóa. Và khi nghĩ tới thành Rome và nước Italy, tôi mời anh chị em cầu nguyện cho những mục tiêu mục vụ của Giáo Phận, và cho sự phát triển hiệp nhất của xứ sở thân yêu này. Với Thị Trưởng mới thành Roma, ngài Gianni Alemanno đáng kính, mà tôi thấy hiện diện ở đây, tôi cầu chúc một sự phục vụ hiệu quả cho lợi ích của toàn thể cộng đồng thành phố. Với tất cả anh chị em qui tự ở đây và với những người liên kết với chúng ta qua phát thanh và truyền hình, cách riêng những người bịnh và ốm, tôi vui mừng ban Phép Lành Tông Toà.
 
Vài dòng lịch sử về Nhà thờ Chính tòa Xà sơn (佘山 Sheshan)
Phụng Nghi
20:20 17/05/2008
Nhà thờ Chính tòa Xà sơn được đặt tên theo ngọn đồi cao 328 feet (100met) tại huyện Songjiang, phía tây thành phố Thượng hải. Đây là ngôi thành đường lớn nhất ở miền đông châu Á và có thời là nơi hành hương của giáo hữu Á châu.

Vương cung thánh đường She Shan
Tên chính thức của giáo đường này là Nhà thờ Đức Mẹ Trung hoa. Ngôi thánh đường đầu tiên trên đồi Xà sơn được xây cất năm 1863. Trong cuộc cách mạng Thái bình thiên quốc, các thừa sai Dòng Tên mua được miếng đất ở sườn phía nam ngọn đồi, nơi này có một tu viện Phật giáo đã đổ nát. Các thừa sai xây ở đây một cơ sở làm chỗ ở và một ngôi nhà nguyện nhỏ. Trên đỉnh đồi các ngài dựng một rạp nhỏ đặt tượng Đức Mẹ.

Tháng 6 năm 1870, tình hình bất ổn tại Tianjing dẫn đến việc thiêu hủy các thánh đường tại đó, các linh mục Dòng Tên tại Thượng hải cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ này và cam kết sẽ xây một thánh đường để tạ ơn sự che chở của Người. Tiếp theo sau đó, công trình xây cất bắt đầu. Gỗ được chở từ Thượng hải đến, còn đá mang từ Fujian. Mọi vật liệu phải chuyển lên đỉnh đồi bằng tay. Thánh đường hoàn tất hai năm sau. Thánh đường đầu tiên này có hình thánh giá, kết hợp hai lối kiến trúc Trung quốc và Tây phương. Một hàng hiên rộng có 10 cột đặt ở bên ngoài cửa chính. Trước thánh đường là 10 con sư tử bằng đá. Năm 1894, xây thêm nhiều cơ sở phụ thuộc, gồm có một nhà nguyện ở lưng chừng đồi, một đền thành kính Thánh tâm Chúa, Đức Mẹ và Thánh Giuse. Dọc theo nhà thờ có 14 chặng đường thánh giá.

Đức Mẹ SheShan
Năm 1925, ngôi nhà thờ này được coi là không còn thích hợp, kém xa các nhà thờ khác tại Thượng hải về quy mô và bài trí. Do đó nhà thờ được phá hủy để xây cất lại. Vì vị linh mục người Bồ đào nha và vị kiến trúc sư (叶肇昌) rất nghiêm khắc về tính chất của công trình kiến trúc, nên dự án này phải mất 10 năm mới hoàn thành và thánh đường được xây xong năm 1935.

Năm 1942, Đức giáo hoàng Piô XII đặt Nhà thờ Chính tòa Xà sơn là một tiểu vương cung thánh đường (minor Basilica). Năm 1946, Tòa thánh đặt tượng Đức Mẹ Zose (Zose là cách phát âm She shan của người dân Thượng hải.

Sau khi Cộng sản chiếm Trung quốc năm 1949, Nhà thờ Chính tòa Xà sơn bị thiệt hại nặng trong cuộc Cách mạng Văn hóa. Các cửa sổ ghép kiếng mầu nơi thánh đường, các tượng dọc theo Chặng đường Thánh giá (Via Dolorosa), ngôi tượng đặt trên nóc tháp chuông, và nhiều tượng ảnh khác bị hủy hoại.

Sau khi cuộc Cách mạng Văn hóa chấm dứt, các hư hại dần dần được sửa chữa. Chỗ đặt pho tượng lúc đầu được thay thế bằng một cây thánh giá, mãi đến năm 2000 mới đặt tượng khác thế vào.

Nhà thờ chiếm diện tích 1 hecta, cao 70 feet (20 met), có hình chữ nhật theo kiểu thánh giá Latinh, xây theo lối vương cung thánh đường thời cổ. Cửa chính đặt tại hướng tây nam, các lối vào khác ở các hướng bắc, tây và nam. Lòng nhà thờ dài 55.81 met, rộng 24.68 met, trần cao 16.46 met, có đủ chỗ cho 3000 người ngồi. Bàn thờ đặt ở cuối phía đông, bằng đá cẩm thạch có viền vàng và có hình trang trí bằng ngọc bích. Phía ngoài nhà thờ phần chính bằng đá granite, và một phần mái lợp bằng ngói màu láng kiểu Trung quốc.
Một góc Nhà Thờ Chính Tỏa Xà Sơn


Đường lên đồi dẫn đến nhà thờ, ở mỗi cuối chặng ngòng ngoèo lại có 1 nơi trong 14 chặng đường thánh giá. Ở lưng chừng đồi, nơi có khoảng trống vuông vức, là hai ngôi đền thánh, một kính Trái tim Chúa, một kính Đức Mẹ.

Gần đó có Trạm Xà sơn thuộc Đài Thiên văn Thượng hải. Đài này nguyên thủy do các thừa sai Dòng Tên xây dựng.

Hành hương

Năm 1874 Đức giáo hoàng Piô IX ban ơn toàn xá cho các khách hành hương đến viếng Xà sơn vào tháng 5 (tháng kính Đức Mẹ). Do đó, người hành hương từ khắp nơi ở Trung quốc bắt đầu đến Xà sơn vào tháng này mỗi năm, và vẫn còn tiếp tục cho đến nay.

Mỗi tháng 5, nhà thờ trở thành điểm hẹn của khách hành hương từ xa đến viếng Xà sơn hàng năm. Họ cầu nguyện tại các chặng đường thánh giá, lần hạt và dự thánh lễ tại thánh địa này. Theo truyền thống, đa số người Công giáo trong vùng này là dân chài lưới, họ thường đến hành hương bằng thuyền. Truyền thống này vẫn còn được người Công giáo địa phương áp dụng cho đến ngày nay, gây ra cảnh ghe thuyền tấp nập chung quanh vùng sông lạch Xà sơn vào mỗi tháng 5.

Hiện nay Xà sơn là địa điểm hành hương duy nhất hoạt động tại Trung quốc dành cho người Công giáo.

(Theo Wikipedia)

Kinh cầu nguyện Đức Mẹ Xà sơn của Đức giáo hoàng

Vatican (VIS) – Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã soạn bản kinh cầu nguyện Đức Mẹ Xà sơn (佘山 Sheshan) để ghi dấu Ngày Cầu Nguyện cho Giáo hội Trung quốc, cử hành chính thức ngày 24 tháng 5.

Trong Lá thư gửi tín hữu giáo hội Công giáo Trung quốc viết hồi tháng 5 năm 2007, Đức thánh cha đã bày tỏ niềm hy vọng rằng ngày 24 tháng 5, theo phụng vụ là lễ kính Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hũu, tước hiệu được tôn kính tại đền thánh Đức Mẹ Xà sơn ở Thượng hải, sẽ trở thành một ngày cầu nguyện cho giáo hội tại Trung quốc.

Toàn văn bản kinh của Đức thánh cha như sau:

“Lạy Đấng Nữ Trinh Rất Thánh, là Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể và là Mẹ chúng con. Mẹ được tôn kính nơi Đền thánh Xà sơn (Sheshan) với tước hiệu “Đấng Phù hộ các Giáo hữu”, toàn thể Giáo hội Trung quốc trìu mến sốt sắng nhìn lên Mẹ. Hôm nay chúng con đến trước nhan Mẹ cầu khẩn Mẹ chở che. Xin nhìn đến đoàn Dân Chúa, và với lòng quan tâm săn sóc của người hiền mẫu, xin hướng dẫn chúng con trên đường chân lý và yêu thương, hầu để chúng con luôn luôn là chất men tạo cảnh chung sống hài hòa giữa mọi người.

“Khi Mẹ phục tùng nói tiếng “xin vâng” nơi nhà Nazareth, Mẹ đã để Con Thiên Chúa hằng cửu nhập thể trong lòng trinh nữ của Mẹ và nhờ đó bắt đầu lịch sử công trình cứu chuộc. Mẹ sẵn lòng và quảng đại cộng tác trong công trình đó, để cho lưỡi gươm đau đớn xuyên qua lòng Mẹ, cho đến giờ tối thượng trên Thánh giá, trên đồi Calvê Mẹ vẫn chăm chú nhìn, đứng bên Con Mẹ, Đấng chết đi để cho chúng con được sống.

Tượng Đức Mẹ trên tháp chuông
“Từ lúc đó, trong cung cách mới, Mẹ trở thành Mẹ của tất cả những ai trong đức tin đón nhận Con Mẹ là Đức Giêsu, và chọn vác Thánh giá Người đi theo bước chân Người. Lạy Mẹ là niềm cậy trông, Mẹ đã đi trong tăm tối Ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh với niềm tín thác không lay chuyển cho tới bình minh lễ Phục Sinh. Xin ban ơn để con cái Mẹ dù trong thời gian đen tối nhất lúc nào cũng nhận ra được những dấu chỉ có Chúa hiện diện yêu thương.

 “Lạy Đức Mẹ Xà sơn, xin nâng đỡ tất cả mọi người ở Trung quốc, dù giữa những thất bại thường ngày, vẫn còn tin tưởng, hy vọng, yêu thương. Xin cho họ đừng bao giờ sợ sệt khi phải nói về Chúa Giêsu cho thế giới và nói về thế giới với Chúa Giêsu.

“Trong pho tượng đứng nhìn xuống đền thánh, Mẹ nâng Con Mẹ lên cao, hiến dâng Ngài cho thế giới với bàn tay rộng mở trong một cử chỉ yêu thương. Xin giúp cho người Công giáo luôn luôn là chứng nhân đáng tin cậy cho tình yêu thương đó, luôn bám chặt vào tảng đá Phêrô trên đó Giáo hội được xây dựng. Lạy Mẹ của Trung quốc và toàn cõi Á châu, xin cầu cho chúng con, bây giờ và mãi mãi. Amen.”
 
Top Stories
Belief in aliens doesn't negate faith in God, Vatican says
Associated Press
17:41 17/05/2008
The Catholic Church's chief astronomer say any extra-terrestrial being would also be a 'part of creation.'

VATICAN CITY -- Believing that there may be extraterrestrial life does not contradict a faith in God, the Vatican's chief astronomer said in a recent interview.

Father Jose Gabriel Funes, the Jesuit director of the Vatican Observatory www.vaticanobservatory.org was quoted as saying the vastness of the universe means it is possible that there could be other forms of life outside Earth, even intelligent ones.

"How can we rule out that life may have developed elsewhere?" Funes said. "Just as we consider earthly creatures as 'a brother,' and 'sister,' why should we not talk about an 'extraterrestrial brother'? It would still be part of creation."

In the interview by the Vatican newspaper L’Osservatore Romano, Funes said such a notion "doesn't contradict our faith" because extraterrestrials would also be God's creatures. Ruling out their existence would be like "putting limits" on God's creative freedom, he said.

The interview, headlined "The extraterrestrial is my brother," also covered the relationship between the Roman Catholic Church and science, and the theological implications of the existence of life on other planets.

Funes said science, especially astronomy, did not contradict religion, touching on a theme of Pope Benedict XVI, who has made exploring the relationship between faith and reason a key aspect of his papacy.

The Bible "is not a science book," Funes said, adding that he thinks the Big Bang theory is the most "reasonable" explanation for the creation of the universe. The theory holds that the universe began billions of years ago in the explosion of a single, super-dense point that contained all matter.

But he continues to believe that "God is the creator of the universe and that we are not the result of chance," he said.

Funes urged the church and the scientific community to leave behind divisions caused by Galileo's persecution 400 years ago, saying the incident had "caused wounds."

In 1633 the astronomer was tried as a heretic and forced to recant his theory that Earth revolved around the sun. Church teaching at the time placed Earth at the center of the universe.

"The church has somehow recognized its mistakes," he said. "Maybe it could have done it better, but now it's time to heal those wounds and this can be done through calm dialogue and collaboration."

Pope John Paul II declared in 1992 that the ruling against Galileo was an error resulting from "tragic mutual incomprehension."

The Vatican Observatory has been at the forefront of efforts to bridge the gap between religion and science. Its scientist-clerics have generated top-notch research and its meteorite collection is considered one of the world's best.

The observatory, founded by Pope Leo XIII in 1891, is based in Castel Gandolfo, a lakeside town in the hills outside Rome where the pope has a summer residence. It also conducts research at an observatory at the University of Arizona in Tucson.
 
Pope speaks of duty to convert others to the faith
AFP
20:55 17/05/2008
VATICAN CITY (AFP) - The Roman Catholic Church has the inalienable right and duty to convert any person to Christianity, Pope Benedict XVI said Saturday.

Evangelism is a central mission of the Church, the pope told a Vatican body that encourages Catholic missionary activity.

The appeal for the conversion of "all nations," attributed to Jesus Christ in the Gospels, remains "an obligatory mandate for the entire Church and for every believer in Christ," the pontiff said.

"This apostolic commitment is both a duty and an inalienable right, the very expression of religious freedom with its moral, social and political dimensions," he said.

Like his predecessors, Pope Benedict is keen to promote missionary zeal among Catholics, most of whom live in a world of religious pluralism and other proselytising faiths such as Islam.

The pope's message was also addressed to the faithful in countries where religious activity is strictly controlled by the state or even relegated to the private realm.

In December, the Vatican published a doctrinal note reaffirming the mission of all the faithful to seek to convert non-Catholics including members of other Christian denominations, while avoiding placing undue pressure on them.

The note highlighted the need for respect and a spirit of cooperation in dialogue with other Christians, and rejected past accusations of proselytising that have been levelled against it by the Russian Orthodox Church.

Relations between the Orthodox Church and the Holy See have been thorny, with the Moscow Patriarchate accusing the Vatican of proselytising in traditionally Orthodox lands following the breakup of the Soviet Union.

Tensions were further aggravated in 2002, after the Vatican established four permanent dioceses in Russia.

(Source: AFP, May 17,2008)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ Bế Mạc Đại Hôi Công Giáo Việt Nam kỳ thứ 32
Dân Chúa Âu Châu
09:05 17/05/2008
ĐỨC QUỐC - Cung nghinh thánh tượng Mẹ La Vang và kiệu Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, nhân dịp cả niệm 210 năm Đức Mẹ hiện ra La Vang, 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức và 20 năm Lễ Phong Hiển Thánh cho 117 Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam.

Thời tiết ba ngày Đại Hội năm nay thật đẹp: trời trong xanh, ấm áp. Chưa bao giờ trong 31 lần tổ chức Đại Hội, tiết xuân lại ấm áp và nắng xuân phơi phới trên muôn hoa đến thế. Ai nấy đều cảm thấy phấn khởi vui tươi vì hồng ân Chúa tràn đổ trong những ngày Đại Hội.

Khoảng 9g30, cuộc rước kiệu cung nghinh thánh tượng Mẹ La Vang và kiệu Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, nhân dịp cả niệm 210 năm Đức Mẹ hiện ra La Vang, 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức và 20 năm Lễ Phong Hiển Thánh cho 117 Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã diễn ra thật hết sức sốt sắng và long trọng, dọc suốt khuôn viên của hội trường. Đức cha Heiner Koch, giám mục phụ tá tổng giáo phận Köln, nguyên chủ tịch điều hợp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Đức từ ngày 16 đến 21.8.2005 đã chủ sự cuộc rước kiệu và Thánh Lễ bế mạc Đại Hội. Trước khi cung nghinh Tượng Đức Mẹ, đức cha Heiner Koch đã xông hương trước kiệu Mẹ.

Đoàn kiệu với trống, chiêng, cờ Giáo Hội, cờ quốc gia Đức và Việt Nam, cờ hội đoàn, Thánh Giá nến cao, hướng dẫn đoàn người với những y phục mang nhiều màu sắc của các em thiếu nhi, đội Hoa, hội Các Bà Mẹ Công Giáo, các thiếu nữ trong đội dâng của lễ và đội hướng dẫn chịu lễ, các em bé tung hoa, ca đoàn tổng hợp, các nữ tu và của các linh mục đồng tế trong lễ phục đỏ thắm… tạo thành một đoàn rước muôn mầu và trang trọng trên đuờng kiệu quanh công viên, dọc theo bờ sông Main -Aschaff.

Những lời nguyện, những lời kinh, bài ca luôn vang lên trong suốt thời gian đi kiệu để chúc tụng tôn vinh Mẹ, nhất là bài ca “Ave Maria, con dâng lời chào Mẹ…“ đã được toàn thể cộng đoàn sốt sắng ca vang để chào mưng Mẹ là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo… Cỗ kiệu Đức Mẹ La Vang đã được 8 thanh niên trong quốc phục khăn đóng áo thụng xanh cung nghinh. Hàng ngàn tín hữu xếp hàng 4 đi theo kiệu Mẹ để xin Mẹ phù trì chở che trong bước đường dương thế đầy gian nguy. Kiệu di ảnh 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam (ảnh chính thức của Lễ Phong Thánh cách đây 20 năm) do bốn phu khiêng kiệu trong y phục lính thú sặc sỡ, cũng được đoàn con cung nghinh và tôn kính. Nguyện xin cho đoàn con cái luôn hãnh diện là con cháu của các Tiền Nhân anh hùng Tử Vì Đạo luôn son sắt trọn đạo với Chúa như cha ông của mình.

Sau hơn một nửa giờ kiệu, Thánh Lễ kết thúc Đại Hội do đức cha Heiner Koch chủ tế, cùng đồng tế với đức cha có các linh mục tuyên úy và quý cha khách, tất cả có 18 linh mục. Sau lời mở đầu Thánh Lễ, đội dâng hoa 8 em gái trong áo đầm mầu trắng thắt khăn xanh mầu Đức Mẹ và 6 em trai cùng tiến hoa ngũ sắc dâng kính Đức Mẹ như phong tục tại Quê Hương xưa trong Tháng Hoa của Mẹ.

Các bài đọc của ngày thứ hai sau Lễ Chúa Thánh Thần. Trong bài giảng Đức Cha chủ tế đã dựa vào biến cố Lễ Hiện Xuống để chia sẻ Lời Chúa với cộng đoàn hiện diện. Sau đây xin được tóm lại những ý chính:

Vào đề, Đức Cha đặt ra ba câu hỏi về Thiên Chúa có thể chịu đau khổ không??? Câu trả lời là có. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa Cha đã ban Con Một của Ngài cho nhân loại: Thiên Chúa muốn ở lại và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nhân loại, mặc dù những tội lỗi và phản bội của con người. Tình yêu thông hiệp của Thiên Chúa thật vô biên, vượt qua không gian và thời gian, để đến ở với nhân loại qua Đấng Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

-Đức Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ Thiên Chúa đã là hòm bia thánh của Thiên Chúa. Tâm hồn Mẹ đầy ân sủng của Thiên Chúa, Mẹ là đền thờ của Chúa Thánh Thần, Mẹ là nữ tỳ của Thiên Chúa, Mẹ luôn mở rộng tâm hồn để chu toàn trọn vẹn Thánh Ý Chúa, luôn thưa lời Fiat „Xin Vâng“ với Chúa. Vì thế Mẹ hằng có Chúa ở cùng.

-Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những tôi trung của Thiên Chúa. Qua đời sống đầy tràn đức tin và lòng trung kiên với Chúa, các Ngài đã hoàn toàn hiến dâng mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ.

-Mỗi Kitô hữu khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội và Thêm Sức trở thành con Thiên Chúa, thành chi thể của Chúa Kitô và trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong cung lòng và trong cuộc đời của mỗi tín hữu. Chúa Phục Sinh đã hứa ở lại với loài người cho đến tận thế. Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu Chữa và Soi Sáng luôn hoạt động trong Hội Thánh và thánh hoá các tín hữu.

Ai có Chúa ở cùng cũng sẽ giống như Đức Mẹ và Các Thánh… họ đầy tràn niềm vui vì được làm con Chúa. Họ hết lòng phục vụ yêu mến trong cộng đoàn cũng như gia đình… Họ luôn tuân giữ luật Chúa. Họ hăng say dấn thân và làm chứng tá cho Tin Mừng cứu độ. Họ trung tín với Chúa cả trong đau khổ thử thách.

Đức cha kể lại chuyện một cô gái Đức mới 16 tuổi, đang chuẩn bị lãnh nhận Phép Thêm Sức cùng với các bạn đồng lớp… Nhưng bất thình lình cô bị ngã bệnh nặng và phải nhập viện. Bác sĩ khám phá ra cô bị bịnh ung thư giai đoạn chót. Do ước muốn của cô, Đức Cha đã đến tận nhà thương và ban Phép Thêm Sức cho cô trên giường bệnh. Cô đã vui mừng lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần và đã vui lòng hiến dâng cuộc đời thanh xuân cho Chúa. Ít ngày sau cô đã an nghỉ an bình trong Chúa, phó thác cuộc đời cô trong vòng tay từ ái của Cha trên trời.

Đức cha nhắc đến những gian khổ của dân tộc Việt Nam, của Giáo Hội Việt Nam và của cộng đoàn tỵ nạn Việt Nam, đã phải trải qua biết bao đau thương và vất vả để tạo dựng cuộc sống mới, nhất là trung tín giữ đạo dù những trào lưu tục hoá và cuộc sống hưởng thụ của xã hội mới…

Đức cha mời gọi cộng đoàn CGVN hãy hãnh diện được làm con Chúa qua Phép Thánh Tẩy. Hãy trung tín với đức tin anh hùng của Cha Ông Tử Đạo. Hãy trung kiên đứng dưới chân Thánh Giá Chúa mặc dù đau khổ và vất vả như Mẹ Maria. Hãy để tâm truyền lại cho thế hệ con cháu đức tin son sắt đã lãnh nhận. Hãy phát triển lòng sùng kính Mẹ Thiên Chúa.

Kết thúc Thánh Lễ là lời cám tạ của ông phó nội vụ Trần văn Rị, thay mặt ban tổ chức Đại Hội để gửi tới đức cha, quý cha khách, quý nam nữ tu sĩ, cùng tất cả mọi thành phần Dân Chúa lời cám tạ chân tình vì đã hăng say và tích cực góp phần chuẩn bị và hoàn thành mọi công tác đã lãnh nhận trước và trong Đại Hội.

Cuối thánh lễ, trước khi ban phép lành, Đức Cha chủ tế đã ngỏ lời cám ơn: Ngài rất lấy làm cảm động vì cuộc kiệu và Thánh Lễ thật sống động và sốt sắng. Ngài khen ngợi đức tin sống động của các cộng đoàn: nhiều trẻ em đến dự lễ, nhiều bạn trẻ trong ca đoàn hát thật hay, các em dâng hoa thật duyên dáng... Ngài mong lại có dip đến tham dự Đại Hội.

Toàn thể cộng đồng đã hát bài ca kết thúc “Kìa ai dong duổi đường gió bụi“ để xin Mẹ phù trì chở che đoàn con đang lưu lạc trên muôn nẻo đương trần. Sau đó mọi người ra ăn cơm trưa… dọn dẹp và chia tay nhau. Đại hội đã kết thúc vô cùng tốt đẹp. Mọi người đã tận tâm giúp thu dọn vệ sinh, trả lại phòng ốc và các lớp học gọn gàng sạch sẽ như khi mới đến nhận. Sau đó lên đường trở về nhà, hẹn gặp nhau vào kỳ đại hội thứ 33 vào đại lễ Chúa Thánh Thần năm 2009, hy vọng cũng tại địa điểm lý tưởng Aschaffenburg.

Sau đây là vài câu chuyện bên lề của Đại Hội:

1) Tham dự viên bé nhất của Đại Hội năm 2008:

đó là một cháu bé trai mới sinh được mấy tuần. Cháu nằm trong xe được bố mẹ đưa đi tham dự Đại Hội lần đầu tiên trong đời. Cháu đang nằm trong chiếc xe với bình sữa ngọt. Cháu chưa biết tặng Mẹ nụ hôn, chưa biết bập bẹ gọi mẹ, hay bi bô tiếng cám ơn mẹ… Vì hôm nay là ngày Muttertag (Ngày Lễ của Mẹ)… Hy vọng cháu sẽ lớn lên trong tin cậy mến Chúa và Mẹ và cháu sẽ luôn hãnh diện mình là con cháu Tiên Rồng, qua sự cố gắng giáo dục của cha mẹ cháu.

2) Mỗi tín hữu có ba người Mẹ:

Vào lúc sau chịu lễ, hơn 400 em thiếu nhi, tay cầm một trái tim, đã hợp xướng các bài ca Đức Việt để mến tặng các bà mẹ dấu yêu… Sau khi cung nghinh kiệu Đức Mẹ La Vang và kiệu các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đoàn dâng hoa 8 em nữ và 6 em trai cũng đã dâng kính Mẹ Thiên Chúa hoa ngũ sắc muôn mầu để tỏ lòng tôn kính Mẹ trên trời. Cuối Thánh Lễ bế mạc, cha chủ nhiệm nguyệt san Dân Chúa đã xin cộng đoàn nhớ về người mẹ thứ ba: Mẹ Hội Thánh và Mẹ Giáo Hội Việt Nam. Mẹ đã sinh chúng ta trong đức tin. Ngài xin các cộng đoàn tiếp tục chiến dich cầu nguyện cho Công Lý và Hoà Bình đã được phát động từ tổng giáo phận Hà Nội và trung tuần tháng 12.2007. Xin cộng đoàn cầu nguyện cho chuyến viêng thăm của Phái Đoàn Tòa Thánh sang thăm Việt Nam vào đàu tháng 6 mang lại kết quả tốt đẹp và xin các tín hữu là con của Giáo Hội hăng say và tích cực góp vào công cuộc xây dựng Giáo Hội theo lời mời gọi của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô đệ nhị (xin xem hình và lời kêu gọi trong trang bìa hai và bìa ba của Cẩm Nang Đại Hội).

3) Hàng 1000 chữ ký cho cha Lý, thượng toạ Ðộ, và bs Quế Linh mục.

Theo bài tường trình về việc xin chữ ký cổ động giải thưởng nhân quyền Sacharow cho Khối 8406, Hòa Thượng Thích quảng Ðộ, Bác sĩ Nguyễn đan Quế và Linh mục Thadeo Nguyễn văn Lý tại đại hội Công Giáo lần thứ 32 tại Aschaffenburg, Ðức quốc của Ủy Ban Vận Động đã có hàng ngàn người tham dự Đại hội ký tên ủng hộ.

Bản tương trình viết: „Tất cả buổi lễ được diễn trong không khí vui mừng, hy vọng và yêu thương, nồng ấm và hạnh phúc. Trong các Thánh lễ đều có dâng lời cầu nguyện cho quê hương Việt Nam, và Giáo hội Việt Nam. Ðó là lòng thể hiện hợp nhất của Giáo hội Việt nam ở khắp năm châu.

Trong niềm vui chung đó, những anh em dấn thân cho giáo hội tại quê nhà, với niềm ao ước đất nước được dân chủ hóa để người dân có quyền bày tỏ ý kiến họ trong cách thức tự do bầu phiếu chứ không phải bị bắt buộc đi bầu và bầu những người được chỉ định như ở Quê hương ta. Nhân quyền được tôn trọng, người dân được che chở bởi pháp luật, chứ không bị đàn áp bởi những người có quyền thế, nhân quyền, dân chủ chính là nguồn gốc để chống độc tài, bất công, tham nhũng và hối lộ.

Họ đã đến nơi để kêu gọi mọi người hãy cầu nguyện cho những người đang dấn thân cho công cuộc dân chủ hoá tại quê nhà và quyền tự do tôn giáo phải được tôn trọng, những người mà bị nhà nước Việt Nam bắt bớ và cầm tù và ghán ghép cho các tội phạm khác như Linh Mục Thadeo Nguyễn văn Lý. Chị luật sư Lê thị công nhân, anh luật sư Nguyễn văn Ðài và rất nhiều người khác.

Tại đây các anh em đã gặp gỡ trao đổi với mọi người. Anh em đã vận động xin chữ ký để gởi đến ủy ban cứu xét nhân quyền giải thưởng Sacharow cho Khối 8406, Thượng tọa Thích quảng Ðộ, bác sĩ Nguyễn Ðan Quế và cha Thadeo Nguyên văn Lý.

Ðây là một trong những hình thức để kêu gọi tôn trọng nhân quyền con người, và giúp cho những người tù tội vì công lý sớm được tự do.

Khi nhắc đến Khối 8406 thì không thể quên được nhóm cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền: Lm Phan văn Lợi, Lm Nguyễn Hữu Giải và Lm Chân Tín. Quý linh mục này cũng đang đấu tranh đòi hỏi quyền Tự do ngôn luận, Tự do báo chí, Tự do tôn giáo.

Không quản ngại những mệt nhọc, các anh em này đã đi đến từng cá nhân nói về tầm quan trọng của giải thưởng này và xin mọi người đến ký tên ủng hộ cho các ứng cử viên trên. Giáo dân đã đến ký tên mong rằng họ sẽ được đóng góp một phần nhỏ nhưng rất quan trọng đó là cùng nói lên tiếng nói ủng hộ cho nền dân chủ hóa tại quê nhà.

Với cả 1000 chữ ký, thay mặt cho ủy ban vận động nhân quyền xin thành thật cám ơn những chữ ký vô cùng qúi gía mà qúi vị đã trao ban cho cha Lý, thượng toạ Ðộ, và bs Quế.

Thay mặt ủy ban vận động nhân quyền tại hải ngoại xin cảm ơn qúi Cha, các linh mục tu sĩ, các giáo dân đã ký tên và ủng hộ, với những chữ ký này chúng tôi sẽ gởi đến Uỷ ban cứu xét giải thưởng tại Pháp để vận động cho các ứng viên trên.

Thưa qúi vị cứu người như cứu lửa, Cha Lý của chúng ta đang bị cầm tù, mỗi người hãy một tay kêu gọi thế gíới hãy cứu ngài.

Năm 1917 khi Chủ ngĩa cộng sản vừa thành hình tại Nga, Mẹ Maria đã hiện ra ở Portugal, Bồ đào Nha, và nói: „ muốn cho thế giới hoà bình và nước Nga trở lại thì các con hãy:

1- Cầu nguyện và Lần hạt môi khôi.

Cầu cho quê hương được thanh bình,nhân quyền được tôn trọng, vì chỉ khi quyền của con người được tôn trọng thì mới có hòa bình thực sự (Lời của Ðức thánh Cha Benedicto).

Xin nhớ cầu thêm cho Cha Lý vì Ngài rất cần lời cầu nguyện của chúng ta.

2- Hãm mình như lời mẹ nhắn nhủ ( Cải thiện đời sống ).

3- Tôn sùng trái tim Mẹ.

Tất cả những danh sách chữ ký sẽ được gởi thẳng đến quốc Hội Âu Châu. (Ủy Ban Vận động )
 
Đức Mẹ Fatima viếng thăm giáo xứ Trà Cổ, giáo phận Hải Phòng
LM Paul Đinh Việt
09:19 17/05/2008
HẢI PHÒNG - Ngày 13 tháng 5 năm 2008 đánh dấu một sự kiện quan trọng trong lịch sử giáo xứ Trà Cổ, đó là cuộc cung nghinh thánh tượng Đức Mẹ Fatima đến viếng thăm giáo xứ.

Đây là cuộc cung nghinh thánh tượng Đức Mẹ Fatima mang tầm mức Giáo phận. Chính vì thế mà ngay từ sáng sớm, đông đảo các cha và bà con giáo dân các giáo xứ thuộc giáo hạt Hải Phòng đã tề tựu tại khuôn viên Toà Giám mục. Đúng 8 giờ, Đức Giám mục đã chủ sự buổi giờ cầu nguyện ngắn gọn trước tượng đài Đức Mẹ trong khuôn viên Toà Giám mục. Sau những lời cầu nguyện và ban huấn từ của Đức Giám mục, đoàn rước Đức Mẹ khởi hành tới giáo xứ Trà Cổ ở miền biên cương của Giáo phận.

Giáo xứ Trà Cổ nằm ở tuyến đầu của đất nước vùng Đông Bắc, giáp giới với biên giới Trung Quốc. Đây là một giáo xứ có truyền thống đạo đức sốt sắng lâu đời. Cách đây 56 năm, tức năm 1952, pho thánh tượng Đức Mẹ Fatima đã được cung nghinh tới vùng đất xa xôi này.

Phải mất gần bảy tiếng đồng hồ vượt chặng đường dài 300 km, qua thành phố Hạ Long và những con dốc khúc khuỷu miền rừng núi biên giới, vào lúc 15 giờ, đoàn rước Đức Mẹ đã đến giáo xứ Trà Cổ. Một lễ đài rất lớn được trang trí công phu tại b•i biển Tràng Lộ, cách nhà thờ giáo xứ chừng 2 km, làm trạm đón tiếp Đức Mẹ

Niềm vui mừng phấn khởi của đoàn con đang mong chờ Mẹ hiền viếng thăm được ấp ủ từ lâu nay như oà vỡ trong niềm vui mừng khôn xiết khi phái đoàn rước thánh tượng Đức Mẹ về tới nơi. Niềm vui mừng được thể hiện trên những khuôn mặt rạng rỡ, những cành hoa muôn sắc mầu, trang phục đẹp nhất của các em thiếu nhi và những người trẻ, những những khuôn mặt xúc động bồi hồi của những cụ già cao niên.

Một cuộc tập hợp tôn vinh Đức Mẹ tại lễ đài trên bãi biển lộng gió, với sự tham dự của Đức Giám mục, 30 linh mục và khoảng 3000 giáo dân đến từ các giáo xứ trong giáo phận. Sau phần suy niệm chỗi Mân Côi do Đức Giám mục chủ sự là những tiết mục dâng hoa và múa hát của các em thiếu nhi trong giáo xứ tôn vinh Đức Mẹ.

Sau giờ cầu nguyện tại bãi biển, một đoàn rước thật dài và trang nghiêm cung nghinh Đức Mẹ vào nhà thờ giáo xứ. Thánh lễ đồng tế do Đức Giám mục chủ sự đã được cử hành vào hồi 17 giờ. Trong phần giảng thuyết, Đức Giám mục đã nhắc lại ba mệnh lệnh Đức Mẹ đã loan báo cho ba trẻ thơ năm nào, thì ngay nay Mẹ vẫn mời gọi con cáI Mẹ thực thi sứ điệp ấy để nhờ đó thế giới được hoà bình và để cứu vớt các linh hồn. Ngài cũng ngỏ lời khen ngợi những người con của giáo xứ Trà Cổ có một truyền thống đạo đức lâu đời. Dù đi đến đâu những người con của Trà Cổ cũng làm vẻ vang cho Quê Mẹ bằng đời sống đạo đức, kính mến Chúa, thảo hiếu với Đức Mẹ, và trung tín với với Giáo Hội.

Cha xứ và giáo dân xứ Trà Cổ thật quảng đại khi khi chuẩn bị tới 1 200 xuất ăn và chỗ nghỉ ngơi cách rất chu đáo cho các đoàn hành hương đến từ các giáo xứ.

Một thánh lễ đồng tế nữa được cử hành lúc 6 giờ sáng ngày 14.05 tại nhà thờ giáo xứ để tạ ơn Thiên Chúa và Đức Mẹ đã ban cho giáo phận và các giáo xứ, đặc biệt cộng đoàn giáo xứ Trà Cổ muôn hồng ân.
 
Lễ Bế Giảng Trường Việt Ngữ Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Arlington, VA
Bùi Hữu Thư
15:41 17/05/2008

Lễ Bế Giảng Trường Việt Ngữ Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Arlington, VA



Virginia ngày 17, tháng 5, 2008 – Tối Thứ Sáu vừa qua Trường Việt Ngữ Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Arlington, VA đã tổ chức lễ bế giảng các lớp Việt Ngữ niên khóa 2007-20008.

Có 34 thầy cô và nhân viên của ban giám đốc, 254 em học sinh của 14 lớp Việt Ngữ từ Mẫu Giáo đến lớp 6, cùng các phụ huynh đã tụ tập trong Hội Trường để tham dự Lễ bế giảng dưới sự chủ tọa của cha xứ Nguyễn Đức Vượng.

Đây là năm thứ năm giáo xứ có chương trình Việt Ngữ kễ từ khi thành lập Trường Việt Ngữ năm 2003. Trước đây từ năm 1979 đến 1984 giáo xứ cũng đã có chương trình mùa hè. Nhưng từ khi cha Vượng làm cha xứ năm 2003, cha đã muốn tổ chức các khóa Việt Ngữ quanh năm theo chương trình của các trường ngoài đời. Cha thấy cần có nhu cầu dậy tiếng Việt vì: Các em cần học tiếng Việt để có thể hiểu biết về văn hóa, phong tục tập quán và lịch sử Việt Nam. Các em cũng cần có khả năng để đối thoại với ông bà lớn tuổi, với thân nhân còn ở Việt Nam hay với bà con đã di cư sang các nước khác như: Pháp, Bỉ, Hòa Lan, Đức....

Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói như sau tại SânVân Động McNichols ở Denver trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 8 (8-16 tháng 8, 1993): “Tôi cám ơn các bạn vì các bạn vẫn gìn giữ các truyền thống cao đẹp cùng các phong tục của quê hương các bạn. Tôi cám ơn các bạn đã bầy tỏ cho tôi thấy điều này và về sự kiện các bạn đã duy trì được tiếng Việt luôn sống mãi trong các con cháu và giới trẻ của các bạn.”

Ngài tiếp: “Với tất cả các bạn tôi yêu cầu các bạn đừng quên giáo hội Việt Nam. Các người anh chị em của các bạn trong đức tin đã chứng tỏ sự trung thành của họ với Đức Kitô trong khi họ sống Phúc Âm trong hoàn cảnh khó khăn.” Ngài đã nói như trên sau khi nói câu tiếng Việt để chào mừng: “Các bạn Việt Nam thân mến...”

Các lớp Việt Ngữ đã được tổ chức riêng biệt với các lớp Giáo Lý. Trường Việt Ngữ hoạt động ngày thứ sáu mỗi tuần từ 7 giờ đến 8:30 chiều, trong khi các lớp giáo lý được tổ chức vào ngày thứ bẩy từ 4 giờ đến 5:30 chiều.

Năm đầu chỉ có các lớp từ Mẫu Giáo đến lớp 4. Từ đó mỗi năm có thêm một lớp cao hơn và sang năm sẽ mở thêm lớp 7. Con số học sinh càng ngày càng đông khiến cho các lớp từ Mẫu Giáo đến lớp 4 phải có hai lớp A và B. Ngoài ra trường còn mở thêm một lớp Việt Ngữ cho người ngoại quốc hay Việt Nam không biết đọc và viết.

Chương Trình Lễ Bế Giảng Trường Việt Ngữ Niên Khóa 2007 -2008 như sau:

  • 1. Hát bài Việt Nam Việt Nam (các thầy cô).
  • 2. Giới Thiệu Quan Khách, các Thầy Cô và các lớp.
  • 3. Lời hiểu thị của Cha Xứ.
  • 4. Chiếu Slideshow
  • 5. Các màn trình diễn của các lớp.


LỚP MẪU GIÁO (Trần Lê Như La, Chu Jessica)

Hát và Múa 4 bài liên khúc:
  • A chào tất cả
  • Đếm 1 2 3 4 5
  • Kìa Con Bướm Vàng
  • Ngôi Sao Bé Tí


LỚP MẪU GIÁO B (Nguyễn Thái Hiền, Trần Hạnh Phước)

    Đọc Bài Thơ:
  • Con Chó


LỚP 1B (Trần Lưu Thụy Mai / Ngô Hoàng Văn)

    Tốp Ca Bài:
  • A Chào Ba, A Chào Má


LỚP 2B (Trịnh Phương Trâm, Lương Tuấn Anh)

Hợp ca bài

- Ngày Đầu Tiên Đi Học

LỚP 3A (Trần Phương Lan, Kim Khuê)

Hợp Ca Bài:

- Cò Lả

LỚP 4B (Tạ Thu Thủy, Lê Văn Thông)

Đọc Bài Thơ

Nhóm 1: Tammy Trần & Dylan Tuan Hoang

Nhóm 2: Christina, Donavan, Anthony

Nhóm 3: Quang, Tuan, Edward, Alan, Andrew, Peter

LỚP 4A (Nguyễn Văn Thành, Dương Thu)

Hợp Ca - Lớp 4A & Lớp 4B

- Tuổi Thanh Xuân

  • 6. Lớp Song Ngữ: Trung Tá Không Quân Hoa Kỳ Dwayne Thompson phát biểu cảm tưởng
  • 7. Lớp 6: Đại diện Học Sinh: phát biểu cảm tưởng của trưởng tràng: Em Nguyễn Quỳnh Trâm Tracy
  • 8. Đại diện Hội Phụ Huynh Học Sinh phát biểu cảm tưởng: Bà Stacy Thụy Trương
  • 9. Đại Diện Ban Giảng Huấn phát biểu cảm tưởng: Thầy Bùi Bảo Lân và Thầy Lương Tuấn Anh.
  • 10. Tặng Bằng tri ân các Thầy Cô.
  • 11. Phát phần thưởng cho các em.
  • 12. Lời Cám Ơn của Hiệu Trưởng trường Việt Ngữ: Giáo Sư Bùi Hữu Thư
  • 13. Bế Mạc: Cha xứ ban phép lành và cầu chúc.
Các phụ huynh hết sức hãnh diện khi thấy con em trình bầy các màn giúp vui: hát, hát và múa, đọc thơ. Các em đã hát rất hay, đọc các bài thơ rất trôi chẩy. Điều ngạc nhiên thích thú là Trung Tá Không Quân Hoa Kỳ Dwayne Thompson, một học sinh của lớp song ngữ đã đọc một bài trình bầy cảm tưởng của ông rất sõi, cử tọa đã hiểu hết những gì ông diễn tả.

Thầy Lương Tuấn Anh thay mặt ban giảng huấn đã đọc bài thơ của thầy để tặng các phụ huynh và các thầy cô:

“Kính thưa cha mẹ, thầy cô,

“Cám ơn cha mẹ thầy cô tháng ngày.

“Hy sinh vất vả năm dài,

“Nuôi con khó nhọc đêm ngày dạy con.

“Dạy con Tiếng Việt nước non

..................................................

« Tiếng Việt là tiếng Chúa ban,

« Năm sáu dấu giọng âm vang tuyệt vời.

« Đặc biệt dấu giọng thành lời

« Năm sáu dấu giọng nên lời nhạc hay.

« Pha Phà Đô Lá có hay,

« Việt Nam thương mến mê say tình Người.

“Con nguyện xin cám ơn Trời,

“Ban ơn hiểu biết nói lời Việt Nam.

“Nguyện xin Thiên Chúa Bình An,

“Phụ huynh, giáo chức an lành sống vui.”


Lớp Mẫu Giáo A: Cô Như La


Các em học sinh


Lớp 1B Cô Thụy Mai và Thầy Ngô Văn


Lớp 2A: Cô Ái Quỳnh và Hoàng Oanh


Lớp 2B: Cô Phương Trâm và Thầy Tuấn Anh


Lớp 3A: Cô Phương Lan và cô Như Khuê


Lớp 4A và 4B: Cô Tạ Thu Thủy, Thầy Thành, Thầy Thông và cô Dương Thu


Lớp 6: Nguyễn Quỳnh Trâm Tracy


Đại Diện Phụ Huynh: Stacy Thùy Trương


Cha xứ cùng Các Thầy Cô và Ban Giám Đốc


Các học sinh xuất sắc đã lãnh thưởng
 
Văn Hóa
Mẹ Việt Nam mong ước (thơ)
Lê Dân Việt
13:20 17/05/2008
MẸ VIỆT NAM MONG ƯỚC

Sao nhớ quá, người mẹ hiền Việt Nam
Dù đau thương, lam lũ mẹ không màng
Mẹ thương con, từ mãi tận thiên thu
Tình yêu mẹ, cao quí sao diễn tả

Nước nổi trôi, lòng mẹ buồn chi lạ
Thấy con buồn, mẹ yên ủi đôi câu
Lòng mẹ sầu, khi đất nước bể dâu
Mẹ cắn răng, ôm hận một mối sầu

Mậu Thân kia, chôn sống con oan nghiệt
Trán mẹ nhăn, đau tủi tháng ngày qua
Nhìn giang sơn, nước mắt mẹ chan hòa
Mất đất, biển, bởi cộng quân một lũ!

Đất cha ông! Mà sao cộng không giữ?
Để bây giờ, biển, đất mất còn đâu?
Sao ngu dại, bay dâng đất cho Tầu
Có những đạo, vì bay mà bức tử!!!

Nhìn đất mất, mà lòng mẹ tư lự
Mẹ mong con, tất cả đừng lặng im
Hãy đấu tranh, đừng sợ hãi im lìm
Kết hợp đoàn, đừng ngồi đó bàn cãi

Đừng viết lách, khích bác nhau lải nhải
Cùng toàn dân, các con phải bước tới
Tất các con, phải đoàn kết nắm tay
Phải đấu tranh, cho dù gặp đắng cay

Quyết xông tới, cho dù phải tan thây
Đừng để nước, vì vô thần trơ trụi
Mẹ mong con, từng ngày đến từng buổi
Mong các con, tất cả vì non sông

Hành động đi, mẹ vui sướng trong lòng
Đừng để cộng, cứ dân oan hạch hẹ
Hỡi các con, những người còn rất trẻ
Theo sĩ phu, vì tổ quốc thân yêu

Phải cố lên, có đau khổ phải liều
Đừng ngồi đó, mà mơ màng suy nghĩ
Nhìn dân Nam, cả trăm họ khổ lụy!
Mặc kệ dân, cho dù lắm bể dâu?

Dân oan khổ, kệ dân cứ âu sầu?
Còn riêng con, cứ lo tìm hạnh phúc?
Mẹ đau buồn, lòng mẹ đau từng khúc
Thương con dân, mẹ khóc suốt thâu đêm

Mong con Việt, ngày nào đó êm đềm
Các tôn giáo, cứu nước để lên trên
Mẹ vui sướng, với tấm lòng của mẹ
Con hãy nhớ! Mẹ thương con đấy nhé

Yêu các con, lòng mẹ vẫn khôn nguôi
Chữ thương con, mẹ luôn để đầu môi
Yêu con nhiều, trong lòng mẹ yêu mến
Mong các con, nguyện cầu chung ngọn nến

Hãy đốt lên, cho danh Việt sáng ngời
Nếu mẹ chết, mẹ thư thái yên nằm
Khi đã thấy, các con đã thống nhất
Cùng một lòng, xây dựng lại non sông.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Giữa Trời
Lm. Tâm Duy
00:24 17/05/2008

GIỮA TRỜI



Ảnh của Lm. Tâm Duy

Tai nghe mắt thấy cả đời

Cũng đều vô nghiã giữa trời hư vô.

(Trích thơ của Omar Khayyâm gs. Lưu Văn Vịnh phóng ngữ)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền